Biểu Tượng Cảm Xúc Hôn Nhau. Điểm qua những hình ảnh thể hiện Biểu Tượng Cảm Xúc Hôn Nhau cute nhất. Nụ hôn lãng mạn là khi bạn nhẹ nhàng chạm môi người ấy, đôi môi hé mở nhẹ nhàng. Đam mê chính là yếu tố chủ chốt làm cho nụ hôn của bạn trở nên lãng mạn. Hoàng hôn: Buổi tối tải xuống hình nền, Hoàng hôn ,tối ,thiên nhiên ,những đám mây ,bầu trời ,mặt trời ,núi hình nền cho thiết bị di động, máy tính để bàn, máy tính bảng. Thêm nữa, Buổi hoàng hôn của những thần tượng” được viết vào chính buổi hoàng hôn của cuộc đời-tư tưởng tác giả. Ở đây Nietzsche quyết liệt vùng lên đánh phá lần cuối cùng bóng tối, - cái bóng tối dày đặc, ngàn đời đã và sẽ còn tiếp tục trùng trùng phủ Nguồn: Lê Thị Lựu - Ấn tượng hoàng hôn. Họa sĩ Lê Thị Lựu (1911-1988) xuất thân từ một gia đình nền nếp nho phong, có cha làm công chức tòa sứ. Vượt lên tất cả những nghi kỵ và định kiến thời đó, bà tự học vẽ và ghi tên vào lớp dự bị để thi vào Trường Cao Những bài thơ về hoàng hôn hay, những câu thơ chiều hoàng hôn ngắn gọn. Nếu bình minh xuất hiện và tượng trưng cho những điều tươi đẹp, mới mẻ sắp đến thì hoàng hôn lại mang những nỗi buồn sâu lắng của thiên nhiên và con người. Hoàng hôn là để gợi nhắc cho con Vay Tiền Nhanh. Mục lục Thơ về hoàng hôn mang nỗi buồn man mác Bài thơ Hoàng hôn tình em – tác giả Thiện Sử Bài thơ Có những chiều – tác giả Thanh Hùng Bài thơ Hoàng hôn lẻ bóng – tác giả Trần Hạ Vi Bài thơ Chiều hoang – tác giả Võ Ngọc Cẩn Bài thơ Hoàng Hôn – tác giả Bảy Trần Bài thơ Chiều hoàng hôn – tác giả Thanh Hùng Bài thơ Chiều thương – tác giả Huỳnh Minh Nhật Bài thơ Hoàng hôn – tác giả Hồng Giang Bài thơ Chiều buông – tác giả Hạnh Nguyễn Ly khúc hoàng hôn – tác giả Phi Bằng Thơ về hoàng hôn trên biển Bài thơ Chiều trên biển vắng – tác giả Biển Chiều Bài thơ Hoàng Hôn – tác giả Thu Hằng Bài thơ Bóng hoàng hôn – tác giả Tú Nguyễn Bài thơ Đến nghe em – tác giả Mai Ngọc Thoan Bài thơ Chờ anh dưới hoàng hôn – tác giả Hồng Giang Bài thơ Biển tím chiều loang – tác giả Giọt buồn không tên Bài thơ Bóng hoàng hôn – tác giả Tú Nguyễn Những bài thơ về hoàng hôn đẹp Bài thơ Buổi Chiều – tác giả Xuân Diệu Bài thơ Hoàng hôn tím – tác giả Toàn Tâm Hòa Bài thơ Hoàng hôn nhớ - tác giả Lê Hoàng Bài thơ Gọi chiều – tác giả Trúc Thanh Bài thơ Hương chiều – tác giả Lê Hoàng Bài thơ Vu vơ – tác giả Thanh Hùng Nếu bình minh là sự tượng trưng cho những điều tươi đẹp và mới mẻ thì hoàng hôn lại thường được gắn với những nỗi buồn sâu lắng, bởi vì hoàng hôn chính là sự kết thúc một ngày. Ngắm hoàng hôn như thể nhắc chúng ta biết rằng một ngày nữa lại sắp kết thúc, cuộc vui nào cũng tàn, hoặc người cũng có lúc sẽ rời đi...chính những điều đó dường như khiến cho hoàng hôn tuy đẹp nhưng buồn. 1. Thơ về hoàng hôn mang nỗi buồn man mác Những bài thơ về hoàng hôn thường khá buồn và mang nhiều cảm xúc, bởi tác giả dường như đã gửi gắm hết thảy những tâm tư, tình cảm của mình vào trong từng câu thơ. Bài thơ Hoàng hôn tình em – tác giả Thiện Sử Lẫn trong nỗi nhớ bộn bề Hoàng hôn dần nhuộm lê thê cõi lòng Chỉ là nặng gánh riêng chung Chỉ là ôm ấp hoài mong mới buồn Người đi khuất dạng sơn truông Đôi lần trở gót cội nguồn thuở xưa Lá thu góp nhặt mấy mùa Tình em cứ mặc nắng mưa vẫn chờ Chờ khi sương mỏng giăng tơ Nắng mai nhuộm dãy núi mờ đằng xa Chờ vầng mây bạc vắt qua Phũ trùm nỗi nhớ chiều tà… hoàng hôn Chim xa mỏi cánh bồn chồn Chuông chùa xóa dịu… thiệt hơn… hận thù Còn ai dáng dấp vọng phu Chìm trong sương khói mịt mù mỏi mong Tình em nhuộm tím sầu đông Bới niềm băng giá chất chồng dài thêm Mình ên góp nhặt ưu phiền Cất vào một góc hồn riêng đợi chờ Bài thơ Có những chiều – tác giả Thanh Hùng Có những chiều nhìn nắng ngủ mê say Ta nghiêng vai hạt gầy rơi thật vội Rồi loang nhạt trên đường dài muôn lối Theo hoàng hôn cùng bóng tối cuối ngày Có những chiều nhìn lá nhẹ lắt lay Rơi thật nhẹ rắc đầy trên phố vắng Để lại đó một không gian tĩnh lặng Niềm ưu tư nghe nằng nặng nơi này Có những chiều mưa rơi nhẹ trên tay Từng hạt nhỏ tan ngay khi vừa chạm Để lại đó một chút gì xúc cảm Như chuyện xưa chưa lần dám tỏ bày Có những chiều nhìn cơn gió nhẹ bay Khơi niềm nỗi khi heo may vừa thoảng Chút man mát vỗ về rồi tan loãng Gợi lòng ta thêm một thoáng u hoài Có những chiều lòng bất chợt nhớ ai Khi nhìn gió và mây bay khắp nẻo Từng chiếc lá rụng dần vì khô héo Và hạt mưa đang lạnh lẽo rơi đều Cho thu về tạo thêm cảnh đìu hiu. Bài thơ Hoàng hôn lẻ bóng – tác giả Trần Hạ Vi Chiều lẻ bóng, hút nhạn vương bến vắng Mắt đượm buồn tắm sợi nắng hoàng hôn Nhớ người thương. Nghe tê tái tâm hồn Gió vuốt nhẹ! Khoảng không ôm giá lạnh Khói lam chiều quyện quê nhà chen vách Én rủ nhau soi bóng ánh tà dương Nỗi nhớ nào bằng nỗi nhớ quê hương Em lặng thầm uống giọt buồn cằn cỗi Chiều tắt nắng. Buông màn đêm giăng lối Con đường mòn cũng giận dỗi bâng quơ Người thương ơi? Phải nhớ đến bao giờ Phút trải lòng, mượn hồn thơ trông ngóng Chỉ mình em ngắm hoàng hôn thả bóng Gửi giọt buồn! Tõm khoảng trống hư không Em nhớ anh. Nỗi nhớ xiết quặn lòng Chiều lẻ bóng… Giữa mênh mông huyền ảo Bài thơ Chiều hoang – tác giả Võ Ngọc Cẩn Chiều đông con nắng đi hoang Tình yêu dẫu vỡ vẫn còn tơ vương Đường xa mờ mịt mù sương Sầu giăng mấy lớp bụi đường trên vai Hoàng hôn vẫy gọi đêm dài Tiếng con chim nhạn bi ai gọi bầy Gió lùa xám ngắt màu mây Mưa bay lất phất lạnh đầy không gian Bơ vơ chiếc bóng vỏ vàng Liêu xiêu chân bước lệ tràn bờ mi Người như đôi cánh chim di Mùa đông tránh rét bay đi phương nào Đêm về không ánh trăng sao Nghe côn trùng khóc giữa bao la buồn Tâm tư dậy ngọn sóng cuồng Biết làm sao hiểu cội nguồn niềm đau Thời gian đâu dễ phai màu Cho nên nỗi nhớ ngàn sau vẫn còn Chiều đông con nắng đi hoang Trời còn mưa nắng ta còn nhớ em Bài thơ Hoàng Hôn – tác giả Bảy Trần Nhìn tia nắng ngã về chiều hấp hối Chợt nhớ người từng nói vẫn mãi yêu Hẹn tương phùng khi trời xế bóng chiều Chẳng ngờ đó là điều không quên được Hoàng hôn rớt cùng câu thề hẹn ước Chắc người quên nên ngược lối đường tim Kẻ nặng mang lại vẫn mãi đắm chìm Ôm vết xước trong tim mòn mỏi đợi Khi đã trọn đem tim hồng trao gửi Là suốt đời vẫn đợi một hồi âm Bóng xế rồi sao vẫn cứ lặng câm Có kẻ ngốc âm thầm mong đợi mãi Giọt nắng cuối chừng như còn nán lại Nắng vừa tươi đã phải lụi tàn ngay Lời hẹn thề vương trên những áng mây Gió nhẹ thoảng đã bay vào vô định Bài thơ Chiều hoàng hôn – tác giả Thanh Hùng Ráng chiều ngả bóng về tây Gió chao nắng thả vai gầy bên sông Vàng phai thêm ửng sắc hồng Ai chờ ai đợi mà mông mênh buồn Lạ kìa đám lá nhẹ tuôn Thu chưa kịp tới gió luồn ngang tai Ồ không chắc tại u hoài Nên lòng cứ ngỡ chiều phai hạ tàn Nên hồn bận bịu miên man Nhìn sông nước chảy tuôn tràn về đâu Hình như gợn chút âu sầu Nỗi niềm ai hiểu vài câu chuyện buồn Nghiêng dần nhạt bóng hoàng hôn Đưa tay vuốt lại tâm hồn phẳng phiu Chiều nay cũng giống bao chiều Có người nơi đó hắt hiu đợi chờ Nữa rồi ta lại ngu ngơ Hoàng hôn tẻ nhạt thẫn thờ mông lung Phía xa còn mãi mịt mùng Tắt dần chiếc bóng hình dung… chỉ là. Bài thơ Chiều thương – tác giả Huỳnh Minh Nhật Hoàng hôn lác đác hạt mưa ngâu Gió qua mệt mỏi cánh nhạn sầu Đôi lời thề hẹn mùa thu trước Theo gió tìm về – anh tôi đâu? Sao anh hờ hững lòng cô phụ? Neo bến trùng xa khách lãng du? Câu hò bến đợi còn muôn thuở Thuyền đi biền biệt chẳng tạ từ Từ ngày anh đi, từ dạo ấy Thu bỗng buồn tênh ở chốn đây Đêm đêm nghe lá rơi bờ nguyệt Lạnh lẽo hồn côi nhớ thương đầy Dẫu biết anh xa ngàn vạn dặm Tôi ngóng chờ gì mộng trăm năm? Thầm trách tim yêu còn bé bỏng Cứ mãi đợi chờ tình xa xăm… Bài thơ Hoàng hôn – tác giả Hồng Giang Hoàng hôn xuống lăn tròn trong nỗi nhớ Nắng mỏng manh trăn trở níu đông tàn Đời người mà ắt sẽ có hợp tan Se sắt nhớ cung đàn thương nốt nhạc Ngõ vắng nhỏ lá vàng khô xao xác Sóng xô bờ xào xạc sợ biển đau Chiều buông rơi để nỗi nhớ nhạt màu Dấu yêu hỡi ở đâu người có thấy Vần thơ tình viết hoài trên trang giấy Đợi chờ ai run rẩy những khát khao Vòng tay ôm bờ môi thắm hôm nào Giây luyến ái đưa ta vào mộng mị Với tình yêu xin người đừng suy nghĩ Kẻo xuân hồng bì tị kém sắc tươi Đã yêu nhau thì yêu đến trọn đời Đừng như nắng rong chơi chiều đông giá Hoàng hôn xuống câu thơ tình nghiêng ngả Gửi cho người… Là tất cả… Tình anh ! Bài thơ Chiều buông – tác giả Hạnh Nguyễn Chiều buồn buông vội câu thơ Ngắm hoàng hôn đỏ thả tơ về trời Buồn hiu quạnh quẽ bên đời Ngắm mây lờ lững nhớ người phương xa Dường như cũng chỉ mình ta Bao chiều thương nhớ vào ra một mình Hỏi mây hỏi gió lặng thinh Một mình thương nhớ mối tình đơn côi Mây chiều lờ lững cứ trôi Trèo lên đỉnh nhớ ta ngồi buông câu Chiều buông bao sợi tơ sầu Là bao nhiêu nhớ nát nhàu con tim Sương rơi lạnh buốt môi mềm Giọt thương giọt nhớ khẽ len vào hồn Ôm sầu lệ buốt rơi tuôn Chìm vào giấc ngủ nỗi buồn vẫn theo. Ly khúc hoàng hôn – tác giả Phi Bằng Tiễn em về ảo mộng khẽ khàng rơi Hoàng hôn phủ chân trời đau ngả tím Ơi vạt nắng đọng thềm rêu chết lịm Tiếng dương cầm sai phím lạc vòng tay. Im bóng đời gió lộng phũ phàng lay Ngàn lá đổ muộn ngày xao nẻo vắng Hong kỷ niệm chuốc men tình dai dẳng Ý phai tàn, tim trĩu nặng sầu thương. Êm lối mòn cỏ dại khuất màn sương U uẩn gợn canh trường ngăn giấc ngủ Nâng nhẹ cánh hoa lòng đang héo rũ Ố màu tranh phai sắc nụ hôn buồn. In khắc vào tâm khảm lệ mưa tuôn Nhìn con suối xa nguồn trôi tản mạn Hờn chi nữa để tâm hồn ly tán Ở phương nào ai trút cạn niềm tin! 2. Thơ về hoàng hôn trên biển Với nhiều người có lẽ nơi ngắm hoàng hôn đẹp nhất chính là dưới bờ biển trải dài cát trắng, gió biển thổi rì rào bên tai, cùng với đó là hình ảnh ánh mặt trời từ từ dịu mát và lặn mất dưới đường chân trời xa kia. Những lúc như thế, có thêm những dòng thơ về hoàng hôn trên biển thì những cảm xúc đã được chôn kín bao lâu chắc cũng sẽ ùa về. Nhưng, dù lòng bạn đang bình yên hay giông bão cũng mong bạn có thể cảm nhận được trọn vẹn khoảnh khắc đẹp đẽ nhất khi đứng trước khung cảnh trời nước bao la. Bài thơ Chiều trên biển vắng – tác giả Biển Chiều Ai đã từng dạo chân trên bờ cát Ngắm lớp sóng xa dào dạt vỗ bờ? Biển về chiều đẹp tựa những nàng thơ Khi ánh hoàng hôn từng giờ buông thả Rực bờ tây ánh hồng thơ mộng quá Cảm xúc trào dâng thật lạ trong lòng Nhìn chân trời tim cuộn nỗi chờ mong Cảm giác bình yên như sà vòng tay mẹ. Biển về chiều dịu dàng và lặng lẽ Sóng rì rào khe khẽ hát lời ru Sắc hoàng hôn nhuộm đỏ áng mây mù Nhè nhẹ gió về…vi vu thông vẫy Trong hoàng hôn biển đáng yêu quá đấy Mỗi chiều về tôi lại thấy yêu thêm Yêu trùng khơi yêu con sóng êm đềm Yêu những con tàu ngày đêm hối hả Xin chắp vần thơ viết về biển cả Mộc mạc chân thành bởi đã quá yêu Dâng hồn tôi xin tặng hết biển chiều Cùng tim đỏ khắc tình yêu... mãi mãi. Bài thơ Hoàng Hôn – tác giả Thu Hằng Chiều chiều tiếng sáo diều vang Vi vu hòa nhạc hai hàng thông reo Hoàng hôn buông xuống theo ngày vào đêm Buồn căng theo gió ngược lên Tiếng chim gọi vịt bờ bên xa dần Trên trời vang tiếng sáo ngân Giọng hò mái đẩy lúc gần lúc xa Hoàng hôn đỏ thắm chiều tà Bóng người thiếu phụ mắt nhòa lệ rơi Tình yêu đẹp lắm ai ơi Niềm vui hạnh phúc suốt đời bên nhau Sông sâu ai bắc nhịp cầu Cho đôi bạn trẻ bên nhau đợi chờ hoàng hôn chiều tím ước mơ Con tim giá lạnh Ngẩn ngơ mong chờ Bài thơ Bóng hoàng hôn – tác giả Tú Nguyễn Ta lặng lẽ giữa biển chiều êm ả Bóng trăng soi nghiêng ngả ánh hoàng hôn Tiếng tim yêu trên sóng vỗ dập dồn Mái chèo khua thả hồn theo con nước Thuyền lênh đênh con sóng đùa Trôi ngược Mộng ước chúng mình như con nước vờn trăng Núi nhô lên muốn níu cả cung hằng Như tay anh níu vầng trăng em đó Ta nhẹ nhàng lắng sâu từng hơi thở Biển mênh mông nhưng không nỡ ồn ào Cứ bình yên cho ta trao ân ái Sóng rì rào như thẹn mãi vì ta. Ánh trăng khuya như cũng đã sắp tà Quay thuyền về ta miên man câu hát Biển dịu êm đưa ta về bến bạc Gió hiu hiu man mát đón bình minh. Bài thơ Đến nghe em – tác giả Mai Ngọc Thoan Ta khao khát chiều hoàng hôn trên biển Có được em như hò hẹn hôm nao Để cùng trao thứ hương vị ngọt ngào Hòa quyện với tiếng rì rào của sóng Em có biết một người đang trông ngóng Chờ phút giây lãng mạn ấy không em Cứ trông hoài mải miết đã bao đêm Mong sẽ có một chiều trên biển vắng Ta và em được say đắm bên nhau Cùng tận hưởng những phút giây dịu ngọt Và cảm nhận điều con tim muốn nói Em có nghe tiếng gọi phía khơi xa Ngày đêm vẫn cồn cào cùng tiếng sóng Đó chính là khát vọng của tình yêu Đến nghe em, ta hẹn một buổi chiều Hoàng hôn xuống trao hôn nồng cháy bỏng! Bài thơ Chờ anh dưới hoàng hôn – tác giả Hồng Giang Em chờ anh chiều hoàng hôn màu tím Nắng nhạt nhòa như lịm cả nhớ mong Ngóng trông hoài đắng chát cả nỗi lòng Mà sao mãi thuyền anh không trở lại Sóng chiều nay cũng dập dồn hoang hoải Bờ cát dài anh mê mải nơi đâu Gió u mê xin hãy bắc nhịp cầu Gửi đến anh cho tròn câu thề hẹn Câu ước ao nửa chừng sao ứ nghẹn Khúc giao mùa chợt nghẹn đắng vành môi Con nước ròng thuyền cứ lững lờ trôi Mặc kệ bến tủi hờn ngồi trông ngóng Giọt lệ sầu bờ mi em ứ đọng Chiều hoàng hôn con sóng cũng lao xao Nỗi nhớ kia sao lại cứ dâng trào Đem ký ức ùa vào tim buốt giá Ở nơi nào thuyền anh còn nghiêng ngả Có hay rằng …. Em hóa đá…. Vọng phu ! Bài thơ Biển tím chiều loang – tác giả Giọt buồn không tên Biển mênh mông biển thì thầm tiếng sóng Hoàng hôn buồn như lắng đọng chiều hoang Bước cô đơn nghe tim thức dâng tràn Cho nỗi nhớ miên man xuôi dĩ vãng Chuyện tình xưa ngủ yên theo ngày tháng Chợt quay về như tản mạn đâu đây Biển nhấp nhô từng con sóng dâng đầy Tung bọt trắng đắp xây bao ảo mộng Tình ngày củ chôn vùi trong vô vọng Em theo chồng cho lạc lõng đời anh Theo tháng năm cho nỗi nhớ xây thành Cho thắt thẻo từng canh tim hoang lạnh Biển chiều hôm đẹp mờ mờ nhân ảnh Biển tròng trành sóng sánh hạt sương đêm Biển mơn man ru trọn giấc êm đềm Sao vẫn thấy buồn thêm bao hoài niệm Ngày xưa đó em rất yêu màu tím Em đi rồi biển tím cả hồn anh Tình yêu ơi sao bôi xoá cho đành Theo ngày tháng tóc xanh giờ đã bạc Thuyền tình ơi sao thẫn thờ trôi dạt Không bến neo buồn man mát bơ vơ Lững lờ trôi cho nỗi nhớ dại khờ Cho bến mãi hững hờ xa diệu vợi Biển cô đơn cánh nhạn buồn chấp chới Tôi lặng thầm ngồi đợi bóng hình ai. Bài thơ Bóng hoàng hôn – tác giả Tú Nguyễn Ta lặng lẽ giữa biển chiều êm ả Bóng trăng soi nghiêng ngả ánh hoàng hôn Tiếng tim yêu trên sóng vỗ dập dồn Mái chèo khua thả hồn theo con nước Thuyền lênh đênh con sóng đùa trôi ngược Mộng ước chúng mình như con nước vờn trăng Núi nhô lên muốn níu cả cung hằng Như tay anh níu vầng trăng em đó Ta nhẹ nhàng lắng sâu từng hơi thở Biển mênh mông nhưng không nỡ ồn ào Cứ bình yên cho ta trao ân ái Sóng rì rào như thẹn mãi vì ta Ánh trăng khuya như cũng đã sắp tà Quay thuyền về ta miên man câu hát Biển dịu êm đưa ta về bến bạc Gió hiu hiu man mát đón bình minh! 3. Những bài thơ về hoàng hôn đẹp Có rất nhiều bài thơ về hoàng hôn nhưng không mang hơi hướng của nỗi buồn mà nó lại gợi cho người đọc một chút niềm vui, hân hoan hoặc như đang lạc vào đâu đó trong một buổi chiều lộng gió, rủ bỏ hết mọi buồn phiền, thả hồn mình vào những ánh chiều rơi... thật đẹp! Bài thơ Buổi Chiều – tác giả Xuân Diệu Buổi chiều đi lảng ở chân mây, Hoa tím trên sông thoảng điệu gầy. Cửa đợi khép thêm đôi mí lả; Mái tranh nghe ấm một niềm tây. Buổi chiều đi lảng ở chân mây… Khói mỏng lên dây móc xóm làng Với trời không sắc đứng nghiêm trang. Âm thầm có những câu than thở Trong rậm lau phơ chấm bụi vàng. Nón xa đi khuất mãi về tây, Một điểm mong nhà giữa bóng cây. Tựa ngõ bằng tre nhìn én liệng, Những nàng thôn nữ đứng, thơ ngây. Buổi chiều đi lảng ở chân mây… Con đường nguồn gốc tự vu vơ Lạnh lẽo chân qua, để bụi mờ. Thờ thẫn cây đa trên bến cũ Đêm đêm như nhớ chị đò xưa. Thoáng trong đôi sợi gió hây hây Một thoảng hương xa chứa mộng đầy. Có lẽ vong hồn năm tháng cũ Trở về phảng phất luyến đâu đây. Buổi chiều đi lảng ở chân mây… Bài thơ Hoàng hôn tím – tác giả Toàn Tâm Hòa Em về ngã nón chiều trôi Hoàng hôn tím nhặt để rồi tương tư Đã yêu màu tím bao chừ Mà sao em giữ khư khư chẳng rời !? Khẽ cười em bảo với tôi Màu hoa tím ấy thay lời thủy chung Trời xui có buổi tương phùng Giữa hoàng hôn tím muôn trùng xuyến xao Tôi về trời đất chênh chao Màu tim tím ấy quyện vào trong mơ Lẽ đâu định mệnh chực chờ Gặp nhau một thoáng bất ngờ lại yêu Vòng xoay duyên nợ trớ trêu Người dưng khác họ sao nhiều nhớ nhung Hoàng hôn tím biếc mông lung Tạ từ không nói ngại ngùng… hẹn nhau. Bài thơ Hoàng hôn nhớ - tác giả Lê Hoàng Ngồi buồn Nhặt nắng chiều rơi Hoàng hôn nhuộm tím khung trời mơ xưa Nhớ ai? Biết nói sao vừa Nụ cười ánh mắt cho ta ngậm ngùi Mình giờ cách trở xa xôi ! Nên thương chỉ biết mượn lời thơ trao Con tim cuộn sóng dâng trào Nhớ buổi ngọt ngào …xao xuyến bờ môi Người yêu hỡi! Người yêu ơi Xa nhau ngắn ngủi, sao dài lê thê Nhớ thương mỗi lúc đêm về Căn phòng trống trải… dạ nghe cồn cào. Bài thơ Gọi chiều – tác giả Trúc Thanh Chiều chậm lại chiều ơi…! Cho tôi nhặt sợi mây chui vào ngủ quên trên tóc mẹ Hái ký ức xanh rì còn dan díu hạt sương Thả cong liềm trăng nửa chừng mây trú nắng Cha khoác áo rêu đời thương kiếp Hạc Phù Điêu* Chậm lại chiều ơi! Tôi vút tuổi thơ lên trời gom mơ ước Đuổi bắt khói lam mơn trớn ngọn lau gầy Chậm lại chiều ơi cho lũ cò về kịp tổ Khi gió mang mùa rắc trắng hoa cau Chậm lại chiều ơi! Tôi thả nhớ cho phù sa tắm gội Gọi yêu thương về neo lại bến thơ Chiếc lá khô trôi, con cá lìm kìm bơi lội Cha gác dầm cuốn lưới buộc xuồng câu Chiều chậm lại chiều ơi! Tôi gọi tháng ba hít đầy hương hoa bưởi Ngắt cọng rau ngò ngát hơi thở đồng quê Chậm lại chiều ơi! Tôi nhặt nhớ thương về xâu chuỗi Kết tặng mẹ môi cười thơm thảo trước… Chiều rơi Bài thơ Hương chiều – tác giả Lê Hoàng Gió thoảng nhẹ hương chiều tan trong đó Là mùi thơm …hoa cỏ dưới chân đồi Nồng nàn khóm bưởi lên ngôi Dịu dàng khói tỏa, của nồi cơm quê Chiều đưa bước mây về đâu… mây hỡi ! Tẩm hương tràn gói gửi đến phương nao? Bâng khuâng bến nhỏ dạt dào Lăn tăn đợt sóng làm chao con thuyền Hương xót lại .. nơi miền quê yêu dấu Mùi cơm chiều mẹ nấu buổi hoàng hôn Nghe sao ấm cả tâm hồn Ru bao ngày tháng , mênh mông ngọt ngào . Bài thơ Vu vơ – tác giả Thanh Hùng Nắng chiều lơ lửng quyện sương bay Đếm thử bao nhiêu mới đến ngày Chiếc lá nhẹ rơi theo gió mát Ngỡ ngàng ta tưởng lọn heo may. Có nắng vừa loang buổi xế tà Để rồi nhường chỗ giọt mưa sa Hắt hiu mây xám làm u tịch Bất chợt bâng khuâng nhớ quá hà. Ai làm lấp lánh hạt châu rơi Giọt nước trong veo tưới xuống đời Ta thấy nỗi niềm còn lắng đọng Bềnh bồng theo những phút chơi vơi. Gió làm hòa quyện sợi mây đan Tí tách hạt mưa gõ nhịp đàn Thấp thoáng trong vườn con dế ngủ Mà lòng cảm thấy thật miên man. Có người từng nói “đừng ngắm hoàng hôn khi bạn buồn” bởi nó chỉ khiến cho nỗi buồn của bạn càng thêm buồn mà thôi! Nhưng nếu bạn là một người yêu cái nắng dịu nhẹ của chiều tà, thích sự cô tịch khi ánh nắng lụi tàn để màn đêm lên ngôi thì “ngắm hoàng hôn” cũng là một cách hưởng thụ cuộc sống. Cuộc sống này vốn đã vội vã, vậy nên nếu có thể hãy để cho tầm hồn có những khoảnh khắc chầm chậm ngắm nhìn những sự thay đổi của đất trời cũng như cuộc sống xung quanh ta. Sưu tầm Nguồn ảnh Internet Lời giới thiệu1. Năm 1888 trong cuộc đời và tư tưởng NietzscheMặt trời lên cao đỉnh rồi bùng vỡ trong Van Gogh trong năm 1888. Đó cũng chính là thời kì sáng tạo dữ dội nhất của ông. Bóng tối lưỡng lự đã bị lùa ra khỏi tranh. Bàn tay trở nên chính xác một cách tàn bạo. Nét cọ tung hoành như sấm sét. Màu sắc loé sáng trong khi tâm trí đã bắt đầu hôn ám. Nhưng trong buổi hoàng hôn của tâm thức đó, viễn tượng đã kết hợp một cách kì diệu với thực tại. Ngày 21 tháng 4 năm sau, Van Gogh viết cho em “Điều an ủi anh đôi chút là anh bắt đầu coi sự điên cuồng như một chứng bệnh giống như những bệnh tật khác, trong khi đó ngay cả trong những cơn khủng hoảng, anh thấy dường như tất cả những gì anh tưởng tượng trước kia đều là thực tại cả.” Và ông lăn xả vào công việc, vẽ từ sáng tới tối. Người ta kể lại rằng những người bạn đồng phòng với ông khi đi ra thấy ông đang vẽ một tấm tranh, vài giờ sau trở vào đã thấy ông vẽ một tấm tranh khác. Ông làm việc như kẻ bị quỉ ám, “ j’ai une fureur sourde de travail plus que jamais ” 9/1889. Ông không thể ra khỏi hội hoạ, nghĩa là ra khỏi thực tại, làm mồi cho điên cuồng và phiền não. “Trong tất cả mọi trường hợp, tìm cách trung thành với sự thực có lẽ là một phương thuốc để chống lại bệnh tật đang làm anh lo âu” thư cho Théo, 12 tháng 2 năm 1890. Có lẽ Vincent van Gogh linh cảm thấy rằng phần ánh sáng dành cho ông sắp hết và ông phải tận dụng nó, nhìn lần cuối cùng trong ánh sáng viễn tượng những thực tại đã bị thói quen giả dối chôn vùi. Trường hợp Nietzsche cũng tương tự như vậy. Năm 1888 là cực điểm sáng suốt và sáng tạo của Nietzsche, đồng thời cũng là cực độ của đau khổ và cô đơn của ông. Ngày 12 tháng 2 năm 1888, Nietzsche viết cho bá tước Seydlitz “Bây giờ tôi cô đơn, cô đơn một cách phi lí; trong cuộc chiến tàn khốc và âm thầm mà tôi theo đuổi dưới uy thế Đảo Hoán mọi Giá Trị chống lại tất cả những gì đã được mọi người tôn sùng và quí trọng từ xưa tới nay, chính tôi đã trở thành một cái u hồn cốc mà không hay...” Trong tình cảnh đó ông chỉ cầu xin một điều “Sự thanh bình, quên lãng, sự khoan dung của mặt trời và của mùa thu cho một cái gì đang muốn chín tới, cho sự chứng thực và biện minh của toàn thể con người tôi...” thư cho Paul Dessen, 3 tháng Giêng năm 1888. Kết quả là năm tác phẩm cuối cùng, chín mùi nhất, mãnh liệt nhất của Nietzsche hoàn thành trong năm này Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Kẻ chống Chúa, Nietzsche chống Wagner, Ecce Homo và tụng ca thực năm 1888 là cực điểm của cuộc đời và tư tưởng Nietzsche. Trước hết nó là cao độ của một thập niên đầy sáng tạo khởi đầu từ 1878 với Phàm phu, quá phàm phu , tác phẩm đầu tiên mà trong đó chan hoà ánh sáng thiên tài, kế đó Ý kiến tương hợp và châm ngôn 1879, Lữ khách và bóng hình mình 1880, Bình minh 1881, Tri thức hân hoan 1882 - bổ túc thêm năm 1887, Zarathustra đã nói như thế 1883–1885, Phi thiện ác 1886 và Phổ hệ luân lí 1887. Song song những tác phẩm trên, trong nhiều thập niên này Nietzsche còn đưa ra nhiều tư tưởng dũng mãnh quanh chủ đề Ý chí hùng cường. Sang năm 1888, Nietzsche bỏ Ý chí hùng cường và thay thế bằng Cuộc đảo hoán mọi giá trị , trong đó Kẻ chống Chúa , là tác phẩm mở 1888 còn có ý nghĩa cực điểm trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche ở chỗ toàn bộ tác phẩm viết trong năm này là những cuộc duyệt xét lại và toát lược lại toàn thể những chủ đề triết lí của ông và của hai ngàn năm triết học Tây phương trong ánh sáng chói loà cuối cùng của tâm thức, ở một cao độ buốt giá, bằng một bút pháp sắc bén, cô đọng. Sau đó là bóng tối và yên lặng hoàn toàn. Đầu tháng Giêng2. Buổi hoàng hôn của những thần tượngTác phẩm Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào người ta triết lí với cây búa? Götzen-Dämmerung, oder Wie man mit dem Hammer philosophiert? được viết trong khoảng thời gian từ cuối tháng Sáu tới đầu tháng Chín năm 1888 và được đem ấn hành vào tháng Mười cùng năm. Mới đầu tác phẩm mang tựa đề Sự nhàn rỗi của một tâm lí gia hay Những giờ nhàn cư của một tâm lí gia Müssiggang eines Psychologen . Nhưng sau đó, theo lời yêu cầu của Peter Gast, một cao đồ trung thành của Nietzsche, đòi ông phải tìm một tựa đề “huy hoàng” hơn cho tác phẩm, Nietzsche nhượng bộ, phỏng theo nhan đề vở Hoàng hôn của những thần thánh Götterdämmerung của Wagner, đặt lại là Hoàng hôn của những thần tượng Götzen-Dämmerung.Thần thoại Bắc Âu kể rằng tất cả mọi thần thánh đều có ngày tàn mạt, ngày họ tan biến vào hư vô. Đó là buổi hoàng hôn của thần thánh. Richard Wagner đã mượn thần thoại này để dựng vở kịch thứ tư trong bộ Tứ ca bộ kịch Tétralogie của ông, Nietzsche thay đổi tựa đề và cả ý nghĩa. “Thần tượng” là biểu tượng Nietzsche dùng để chỉ chân lí. “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự sụp đổ của mọi chân một thực tại, một ý tưởng, một lí tưởng, một chân lí, một “thần tượng” nào tác phẩm này không chạm tới. Từ những chân lí vĩnh cửu đến những chân lí, giá trị mới mẻ. “Một cơn gió lớn thổi qua rặng cây... và trái chín rụng rơi tơi tả những chân lí”. Ecce Homo . Nhưng những cái người ta có thể lượm trong tay chẳng có gì ngọt ngào. Vì đó chỉ là những trái thối hư, thực phẩm vô vị đã hết dưỡng chất của hai ngàn năm qua cần phải liệng bỏ. Tất cả mọi chân lí đều nhạt phai và phải xoá đi, mọi thần tượng đều hết thiêng liêng và phải tiêu diệt. Duy chỉ có cuộc đời là vĩnh cửu. Tất cả mọi hiểu biết đều sai lầm, mọi luân lí đều độc hại. Duy chỉ có bản năng là tốt là cuộc Tuyên chiến vĩ đại. Đây là cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lí trí, luân lí, tâm lí học, lòng ái quốc, vị tha, tình nhân loại... Đây là cuộc lột mặt nạ không thương tiếc những nhân vật, “những thần tượng” tượng trưng cho những chân lí, những giá trị cũ Socrate, Platon, thiện ác, đẹp xấu... và những “thần tượng” tượng trưng cho những chân lí và giá trị mới Renan, Rousseau, Sainte-Beuve, G. Eliot, George Sand, Schopenhauer, Comte, Kant, Schiller, Zola, Victor Hugo, Listz, Carlylle, nghệ thuật vị nghệ thuật, dân chủ, tiến bộ...Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác phẩm này những tư tưởng hữu thể học quan trọng nhất của Nietzsche. Đúng hơn, chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là hữu thể học truyền thống coi là “hữu thể chân thực” Wahres-Sein cái thực ra chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả đặc tính của phi thể Nicht-Sein và vô thể Nichts và chối bỏ, coi như “phi hữu” và phi thực cái thực ra là hữu thể đích thực và hữu thể duy nhất. Cái từ xưa tới nay, người ta coi là hiện thể đích thực, thực ra chỉ là mộng huyễn bào ảnh, trong khi cái từ xưa tới nay người ta coi là mộng huyễn bào ảnh lại chính là hiện thể chân thực. Cái từ xưa tới nay được coi là “hữu thể” Sein đối nghịch với biến dịch không có, trong khi chỉ có cái biến dịch hiện hữu mà thôi. Không có “hữu thể” siêu thời gian và không gian,cũng như không có tâm linh thế giới, Linh tượng giới le monde des idées hay thế giới của những ý tưởng vĩnh cửu mà chỉ có thế giới khả giác monde sensible, hiện hữu trong không gian thời gian. Không có thế giới tự nội monde en-soi, mà chỉ có thế giới hiển lộ monde des apparences. Không có thế giới khác mà chỉ có thế giới này , thế giới chân thực, duy nhất, linh động mà nguyên động lực là ý chí hùng dũng. Không có thế giới nào khác. Tất cả những ý nghĩ, khát vọng về một thế giới khác chỉ là cách trả thù cuộc đời “bằng sự lạm dụng ảo tưởng” về một cuộc đời “tốt đẹp hơn”. Sự chia thế giới ra làm một thế giới “tự nội” và một thế giới “bề ngoài” là dấu hiệu của sự suy đồi - một triệu chứng của sa đoạ. “Sự kiện người nghệ sĩ đặt bề ngoài lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “bề ngoài” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa , nhưng mà là dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai... Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm,- hắn gật đầu nói “ừ” trước tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp của cuộc đời, hắn là kẻ theo Dionysos”.Chương quan trọng nhất và cũng là trọng tâm của tác phẩm là chương “Lí trí trong triết học”. Trước đó là “Vấn đề Socrate”, sau đó là “Luân lí như một cái gì phản tự nhiên”. Trước kia Nietzsche lên án khoa học, triết học vì chúng bị đầu độc bởi luân lí. Bây giờ Nietzsche lên án luân lí, triết học, khoa học bởi chúng bị đầu độc bởi lí trí, hay đúng hơn, bởi những sự lầm lẫn lớn lao của lí luận. Những triết gia lầm lẫn lấy hậu quả làm nguyên nhân, nguyên nhân làm hậu quả. Nietzsche bài bác gắt gao phương trình quái gở và bệnh hoạn này của Socrate lí trí = đức hạnh = hạnh phúc. Socrate, Platon là những triệu chứng suy đồi. Thế nào là suy đồi décadence? “ Bị bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng đó là định thức của suy đồi, khi cuộc đời hướng thượng, hạnh phúc và bản năng là một.” Tất cả mọi sự tốt lành đều thuộc bản năng. Alles Gute ist Instinkt. Nietzsche coi như có bổn phận chống lại quan niệm cho Thượng Đế = thế giới khác của “hữu thể chân thực”. Vì quan niệm như thế, người ta bắt buộc phải coi rẻ những thực tại trần gian mà giác quan chứng nghiệm, khi coi chúng là hiển thể Schein không thực thể, và đi đến chỗ khước từ cuộc sống nhục cảm, lành mạnh, coi như “tội lỗi”. Theo Nietzsche, với Thượng Đế, người ta đặt thành tuyệt đối thể một hữu thể tưởng tượng, phi thời gian bên trên những thực tại trần gian, những cái duy nhất có thực thể trong dòng biến dịch. Một Thượng Đế, nếu được quan niệm như thế, sẽ làm nền tảng cho một thứ luân lí vô cùng nguy hại cho con người và cuộc đời. Đó là một hữu thể học luân lí hoá hay một luân lí hữu thể học hoá. Cần phải giải phóng hiện thể khỏi thứ hữu thể học hay luân lí này. Đó là một nhiệm vụ nặng nề mà Nietzsche gọi là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị”. Đó là công việc của người nghệ sĩ bi tráng, kẻ nói “ừ” trước tất cả mọi hồ nghi và khủng khiếp. Người nghệ sĩ bi tráng chọc thủng hiển thể để đạt tới thực thể một cách can đảm. Hắn dám chấp nhận cái chết của Thượng Đế và dám đập “bằng cây búa” tất cả những chân lí cắm rễ sâu nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống và thừa can đảm để gây nên những “âm thanh trống rỗng” của buổi chiều tà. Đi vào “Hoàng hôn của những thần tượng” và đương đầu với “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” là những sứ mệnh lịch sử của người nghệ sĩ bi tráng cũng như của tất cả những tinh thần tự do không chấp nhận làm rêu mốc bám trên những bậc thềm, những bờ tường nứt nẻ của những miếu đường hoang vắng nữa. Nếu “Hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự lạm phát của mọi chân lí, mọi giá trị thiết định lấy “thế giới chân thực” bên ngoài trần gian, bên kia đời sống làm bản vị, coi những kẻ bạc nhược sa đoạ là những kẻ làm giấy bạc, coi đền thờ là những ngân hàng và Thượng Đế là kẻ chế tài thì “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” chính là sự phá giá của tất cả những chân lí, những giá trị đó. Cả hai đều là những giai đoạn tất yếu và cần phải vượt qua của lịch sử. Chân lí, trần gian, cuộc đời sẽ và chỉ thuộc về những kẻ chân thực, dám đốt đi những bản di chúc hứa hẹn huy hoàng nhưng giả dối và giả tạo như tấm ngân phiếu không tiền bảo chứng, những kẻ sau khi buông rời cây búa phá huỷ còn đủ sức mạnh cầm tay cầy khai phá cánh đồng khả thể, khơi mở dòng đời, tạo dựng đời sống trong dòng Hồn nhiên của Biến từDuy trì được sự thanh thản giữa một sự vụ u sầu và có thể biện minh quá độ chừng đâu phải là một nghệ thuật không đáng kể tuy nhiên có điều gì cần thiết hơn thanh thản chăng? Chẳng việc gì thành công nếu lòng hăng hai chẳng tham dự vào. Chỉ có sự thặng dư của sức mạnh mới là bằng chứng của sức mạnh. Đảo hoán mọi Giá Trị, dấu hỏi quá đen, quá lớn hắt bóng tối lên kẻ đặt ra nó, -định mệnh của một công việc như vậy buộc người ta từng giây phút phải lao thẳng vào mặt trời, rũ bỏ vẻ trang nghiêm đã đè ta quá nặng. Tất cả mọi phương tiện đều được biện minh, mọi “cơ hội” đều là cơ hội tốt. Trên tất cả, chiến tranh. Chiến tranh luôn là sự minh mẫn thận trọng ghê gớm của tất cả những tinh thần đã trở nên quá chuyên tâm, của tất cả những tinh thần đã trở nên quá thẳm sâu; khả năng chữa trị đã nằm ngay trong vết thương. Một câu phương ngôn mà xuất xứ tôi cố tình dấu nhẹm óc tò mò trí thức, từ lâu đã trở thành phương châm của tôiincrescunt animi, virescit volnere virtus[1]Một hình thức chữa trị khác, trong một vài trường hợp còn thích hợp với tôi hơn nữa, đó là thăm dò những thần tượng... Trên thế giới có nhiều thần tượng hơn là thực tại đó là “ác nhãn” của tôi đối với thế giới này, đó cũng là “ác nhĩ” của tôi nữa... Ở đây đặt ra những câu hỏi với một chiếc búa và có thể nhận được như một hồi âm cái âm thanh trống rỗng thốt lên tự lòng hiu hiu tự đắc - thích thú thay cho kẻ nào có một đôi tai khác nữa sau đôi tai của mình, - đối với tôi, một tâm lý gia và một kẻ đánh bẫy chuột cố cựu, trước sự hiện diện của kẻ đó quả thực những gì muốn thủ khẩu như bình cũng phải thốt lên tiếng nói ...Cả cuốn sách này nữa - nhan đề đã bộc lộ nội dung - trước hết là một sự giải trí, một chấm ánh sáng, một cuộc đào thoát vào những giờ nhàn rỗi của một tâm lý gia. Có thể còn là một cuộc chiến tranh mới nữa? Và biết đâu có thể bắt được quả tang những bí mật của những thần tượng mới?... Cuốn tiểu luận này là một cuộc khai chiến vĩ đại ; còn về vấn đề nhằm thăm dò những thần tượng, lần này không phải là những thần tượng thời đại mà là những thần tượng vĩnh cửu ở đây sẽ bị đụng chạm đến bằng một chiếc búa như thể bằng cái âm thoa - cuối cùng không còn những thần tượng cổ kính nữa... Cũng không còn những thần tượng trống rỗng nữa... Nhưng điều đó không ngăn cản được người ta tin tưởng nhất; cũng như không ngăn cản người ta, ngay cả trong những trường hợp cao quí nhất, không gọi là thần tượng nữa...Turin, 30 tháng Chín, 1888, ngày hoàn tất cuốn sách đầu tiên của Cuộc đảo hoán mọi Giá Trị[2]Friedrich NietzscheChâm ngôn và tên cư là khởi đầu của tất cả mọi tâm lý học. Sao? tâm lý học có thể là... một tật xấu? cả kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng ít khi có đủ can đảm khẳng định điều hắn thực sự sống một mình người ta phải là một con vật hay một thần thánh - Aristote nói như vậy. Còn có trường hợp thứ ba nữa người ta phải vừa là thú vật vừa là thần thánh - đó là triết cả mọi chân lý đều đơn giản.”- Đó không phải là một lời dối trá phức tạp sao? Nói một lần dứt khoát, có nhiều điều tôi không muốn biết. - Minh triết vạch ra những giới hạn, ngay cả đối với hiểu biết. Chính vì trong bản chất của người ta có chất man rợ mà người ta có thể khôi phục lại được sự ác tà của mình, tôi muốn nói tâm linh tính... Sao? Con người chỉ là một sự nhầm lẫn của Thượng Đế hay Thượng Đế chỉ là một sự nhầm lẫn của con người? Trường chiến tranh của đời. - Cái gì không giết tôi khiến tôi mạnh mẽ hơn. Hãy tự giúp mình rồi tất cả sẽ trợ giúp mình. Nguyên tắc bác ái của Kitô giáo. ta đừng hèn nhát trước những hành động của chúng ta! Chúng ta đừng bỏ rơi chúng ta trong cơn bối rối! - Sự hối hận của lương tâm là điều khiếm lừa có thể bi thảm không? - Bị đè bẹp dưới một gánh nặng mà người ta không thể mang cũng không thể quẳng đi?... Trường hợp của triết người độc ác không biết hát”. Vậy thì tại sao những người Nga lại biết hát? “Tinh thần Đức” từ mười tám năm nay[6]là một contradictio in adjecto[7]. muốn tìm nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con tôm[8]. Nhà sử học nhìn lại đằng sau cuối cùng ông ta tin tưởng vào phía sau. Sự thoả mãn bảo vệ người ta khỏi ngay cả sự cảm lạnh. Một người đàn bà biết mặc áo quần đầy đủ có cảm lạnh không nhỉ? - Tôi giả thiết trường hợp nàng mặc quần áo mong manh. Tôi hồ nghi tất cả những người muốn thiết lập hệ thống và tránh xa họ. Ý muốn lập hệ thống là sự thiếu ngay thẳng thanh liêm. Người ta nói rằng người đàn bà sâu sắc - tại sao? Bởi vì người ta không bao giờ tới được đáy sâu của họ. Người đàn bà không hời hợt nữa. Khi người đàn bà có những đức tính đàn ông, người ta lảng tránh nàng, và nếu nàng không có những đức tính ấy, nàng sẽ chạy trốn chính nàng. Trước kia lương tâm phải cắn nhiều xiết bao! Nó có bộ răng tốt biết mấy! Và ngày nay? Có chuyện gì trục trặc xảy ra? - Vấn đề của nha sĩ. Ít khi người ta phạm nguyên chỉ một lỗi lầm khinh xuất. Với lỗi lầm khinh xuất đầu tiên, người ta luôn làm quá. Chính vì lý do đó, người ta thường phạm lỗi thứ hai - và bây giờ thì lại quá ít. Khi bị giẫm chân lên, con con sâu sẽ cuộn mình lại. Đó là tính thận trọng khôn ngoan. Bằng cách đó nó giảm dần tai hoạ bị giẫm lên trên lần nữa. Nói theo ngôn ngữ đạo đức lòng khiêm tốn. Sự ghét dối trá và che đậy có thể khởi lên từ quan niệm thái quá về danh dự; sự khinh ghét tương tự có thể khởi lên từ lòng hèn nhát, vì sự dối trá bị cấm bởi luật thiêng liêng. Quá hèn nhát để nói dối... ít biết chừng nào để được hạnh phúc! Tiếng sáo mục tử. - Không âm nhạc cuộc đời sẽ là một lỗi lầm. Người Đức còn tưởng tượng ngay cả Thượng Đế như một người đang ca hát nữa. On ne peut penser et écrire qu’assis[9]G. Flaubert - Thế là ta tóm được ngươi rồi, kẻ theo hư vô chủ nghĩa! Ngồi đúng là phạm tội với Thánh Linh. Chỉ có những tư tưởng đến với ta khi đang bước đi mới có giá trị mà thôi. Có những trường hợp chúng ta giống như những con ngựa, chúng ta, những tâm lý gia, và chúng ta trở nên bồn chồn sợ hãi chúng ta nhìn thấy bóng chúng ta chập chờn trước mặt mình. Tâm lý gia phải quay mặt đi đừng nhìn mình để có thể nhìn thấy tất cả. Chúng ta có gây tổn thất gì cho đức hạnh không, chúng ta những kẻ vô luân? - Cũng ít như những kẻ vô chính phủ làm hại những ông hoàng vậy thôi. Chỉ khi nào đã bị bắn rồi họ mới có thể ngồi lại một cách vững vàng trên ngôi. Luân lý người ta phải bắn bỏ luân lý. chạy trước những người khác? - Bạn làm như vậy như một mục tử? Hay như một kẻ ngoại hạng? Trường hợp thứ ba có thể như một kẻ đào ngũ... Câu hỏi thứ nhất của lương chân thật? Hay chỉ là một kẻ đóng trò? Một đại diện? Hay chi rlà một kẻ được đại diện? Cuối cùng có lẽ bạn chỉ bắt chước kẻ đóng trò... Câu hỏi thứ hai của lương bất mãn nói. - Tôi tìm kiếm những vĩ nhân nhưng bao giờ cũng chỉ tìm thấy con khỉ bắt chước lí tưởng của là kẻ ngắm nhìn? Hay một kẻ bắt tay vào công việc? - Hay một kẻ ngó lơ quay đi chỗ khác... Câu hỏi thứ ba của lương muốn đi chung cùng bạn hữu? Hay dẫn đầu? Hoặc đi riêng lẻ một mình?... Người ta phải biết mình muốn gì và phải biết rằng mình muốn. - Câu hỏi thứ tư của lương với tôi chúng chỉ là những bậc thang và tôi đã bước lên chúng - do đó tôi phải vượt qua chúng. Nhưng chúng lại tưởng rằng tôi muốn ngồi lên đề về cuộc đời, những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại đều đưa ra một phán đoán tương tự như nhau cuộc đời vô giá trị ... Bất cứ ở đâu và bao giờ cũng vậy người ta đều nghe thấy câu nói đó thốt ra từ miệng họ. - Một câu nói đầy nghi ngờ, đầy phiền não, đầy chán chường cuộc đời, đầy khinh miệt cuộc đời. Ngay cả Socrate cũng nói lúc lâm chung “Sống - là đau bệnh một thời gian lâu dài Ta nợđấng cứu nhân độ thế Esculape một con gà[10]” Ngay cả Socrate cũng chán mứa cuộc đời. - Điều đó chứng tỏ gì? Điều đó muốn trỏ cái gì?- Ngày xưa có lẽ người ta sẽ nói - Ồ, người ta đã nói rồi và nói khá lớn, nhất là những kẻ bi quan của chúng ta “Chắc chắn phải có một cái gì chân thực ở đây!Consensus sapientium[11]là bằng chứng của chân lý.” – Ngày hôm nay chúng ta sẽ còn nói như thế không? Chúng ta còn được phép làm thế không? “Chắc chắn phải có một cái gì bệnh hoạn ở đây” - đó là câu trả lời của chúng ta. Những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại, ta phải nhìn họ thật gần! Có thểtất cả những người đó chân không còn đứng vững? Chậm trễ? Run rẩy? Décadents[12]biết đâu? Có lẽ sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí? niệm bất kính cho rằng những bậc hiền nhân vĩ đại là những mẫu sa đoạ[13]khởi lên trong tôi chính trong trường hợp trong đó thành kiến bác học và thành kiến vô học đối chọi nhau kịch liệt tôi nhận ra Socrate và Platon như những triệu chứng suy đồi, như những công vụ của sự băng hoại của Hy Lạp, như những kẻ nguỵ Hy Lạp, như những kẻ bài Hy Lạp Sự khai sinh của bi kịch , 1872. Sự consensus sapientium - như càng ngày tôi càng thấy rõ - chẳng chứng tỏ một chút nào rằng họ có lý về điều mà họ đồng ý với nhau nó chỉ chứng tỏ rằng chính họ, những kẻ khôn ngoan nhất, một cách nào đó về phương diện sinh lý, họ tương tự như nhau để có cùng một thái độ như nhau đối với cuộc đời - để bắt buộc phải có thái độ đó. Sau hết, những phán đoán và những thẩm định giá trị về cuộc đời, dù tán dương hay chống lại, đều không thể đúng được giá trị đích thực của chúng nằm trong sự kiện chúng là những triệu chứng; chúng chỉ có thể được coi như là triệu chứng mà thôi - trong tự thể những phán đoán này là những điều xuẩn ngốc. Chúng ta phải cố gắng bằng mọi cách để lãnh hội sự tế nhịsiêu phàm này là giá trị của cuộc đời không thể thẩm định được[14]. Không thể thẩm định được bởi một người còn sống, bởi hắn là thành phần, là đối tượng của chính cuộc tranh luận nữa, chứ không phải là quan toà; cũng không thể bởi một người đã chết vì một lý do khác. - Về phần một triết gia, nhìn một vấn đề trong giá trị của cuộc đời, là một vấn nạn chống lại chính hắn, một dấu hỏi về sự khôn ngoancủa hắn, một sự thiếu khôn ngoan[15]nữa - Sao? Tất cả những người khôn ngoan vĩ đại này - không những họ là những décadents mà họ còn không khôn ngoan nữa sao? - Nhưng tôi xin trở lại vấn đề về nguồn gốc, Socrate thuộc về đẳng cấp thấp hèn nhất Socrate thuộc dòng hạ lưu. Người ta biết, người ta có thể thấy ông ta xấu xí biết chừng nào nữa. Nhưng sự xấu xí tự nó đã là một vấn nạn, hầu như là một bác luận nơi người Hy Lạp. Socrate có đúng là người Hy Lạp không? Sự xấu xí thường là dấu hiệu của một sự phát triển bị ngăn chặn, một sự phát triển bị cản trở bởi sự pha giống. Trong trường hợp khác, nó hiện ra như một sự phát triển suy đồi. Những nhà nhân chủng học chuyên khảo vềtội ác học tuyên bố rằng kẻ tội phạm đặc trưng xấu xí monstrum in fronte, monstrum in animo[16].Nhưng kẻ tội phạm là một kẻ décadent[17]. Socrate có phải là một kẻ tội phạm đặc trưng không? - Dù sao điều đó cũng không trái ngược với ý kiến của nhà chuyên coi tướng mạo, ý kiến khiến bằng hữu của Socrate tức giận. Trong khi đi qua thành Nhã Điển, một người ngoại quốc biết coi tướng mặt đã nói thẳng vào mặt Socrate rằng ông ta chỉ là một quái vật , ông ta chứa dấu trong mình tất cả những tật xấu và những khát vọng đồi bại. Và Socrate chỉ đáp “Thưa ông, ông biết tôi rõ lắm”. những sự hoang đàng và hỗn loạn của bản năng chỉ sự décadence nơi Socrate mà sự bội dư của những khả năng luận lý, và sự độc ác méo mó còn là những đặc tính nổi bật nơi ông ta nữa. Chúng ta đừng quên rằng những ảo tưởng thính giác, dưới danh từ “con quỷ của Socrate”, được diễn giải theo một ý nghĩa tôn giáo. Tất cả mọi sự nơi ông ta đều quá đáng, hài hước, hoạt kê, đồng thời đều dấu diếm, có ẩn ý, tà khuất. Tôi cố gắng tìm hiểu xem đặc tính nào đã có thể khai sinh ra cái phương trình Socrate này lí trí = đức hạnh = hạnh phúc cái phương trình quái gở nhất, và đặc biệt, nghịch lại tất cả mọi bản năng Hy Lạp xưa. Với Socrate, thị hiếu Hy Lạp biến đổi theo chiều thuận lợi cho biện chứng pháp thực ra điều gì đã xảy ra? Trước hết, thị hiếu cao nhã đã biến mất; với biện chứng pháp, đám hạ lưu len chân tới thượng đỉnh. Trước Socrate, những lề lối biện chứng bị khai trừ trong xã hội thượng lưu chúng bị coi như những kiểu cách xấu xa, chúng có tính cách thoả hiệp bình dân. Thanh niên được cảnh giác lánh xa. Người ta còn nghi kị cả những kẻ trình bầy lý lẽ của mình. Những sự việc lương thiện cũng như những con người lương thiện không mang phơi trần những lý lẽ của mình cách ấy. Phơi bầy cái tốt lành của mình là điều vô phép. Cái cần phải chứng rỏ không có giá trị bao nhiêu. Bất cứ nơi nào mà uy quyền hãy còn thuộc tập tục tốt, bất cứ nơi nào mà người ta không “luận lý” mà chỉ ra lệnh, thì nhà biện chứng pháp là một thứ hề hắn bị chế nhạo, hắn không được coi trọng. Socrate là tên hề thành công trong việc bắt người khác coi mình là trọng vậy thì chuyện gì đã thực sự xảy ra? Người ta chỉ chọn biện chứng pháp khi nào không còn cách nào khác. Người ta biết rằng biện chứng pháp gây ra nghi ngờ, rằng nó không hùng hồn lắm. Không có gì dễ xoá bỏ hơn hiệu quả biện chứng sự kiện này được chứng minh trong những cuộc hội thảo. Nó chỉ có thể là sự tự vệ cuối cùng của những người không có khí giới. Người ta phải dành giật quyền hành của mình nếu không, người ta không dùng đến nó. Đó là lý do tại sao, những người Do Thái đều là những nhà biện chứng; Lão Cáo- già[18]là nhà biện chứng sao vậy? Socrate cũng là một nhà biện chứng sao? Sự hài hước của Socrate là một biểu lộ của phản kháng? Của lòng hờn oán của đám hạ lưu? Ông ta có đã cho thấy cách mà Socrate cám dỗ ông ta có vẻ là một thầy thuốc, một đấng cứu thế. Có cần phải vạch ra sự sai lầm trong niềm tin vào “lí trí với bất cứ giá nào” của ông ta nữa không? - Đó là một sự tự lừa dối về phía những triết gia và những nhà luân lí khi họ tin tưởng rằng họ thoát ra khỏi sự décadence bằng cách gây chiến với nó. Điều đó ở trên khả năng của họ cái họ chọn lựa như một phương thuốc, như một phương tiện cứu chuộc, lại chỉ là một sự biểu lộ khác của sự décadence - họ chỉ thay đổi cách biểu lộ của nó, chứ họ không huỷ bỏ được chính nó. Socrate là một sự ngộ nhận; toàn thể luân lí nhằm cải thiện, kể cả luân lí Kitô giáo là một sự ngộ nhận ... Ánh sáng chói lọi nhất, lí trí với bất cứ giá nào, đời sống minh bạch, lạnh lùng, thận trọng, ý thức, không phải bản năng, chống lại bản năng, chỉ là một sự bệnh hoạn, một thứ bệnh hoạn mới - chứ không phải là một sự trở về “đức hạnh”, “sức khoẻ”, hạnh phúc... Bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng - đó là định thức của sự décadence chừng nào mà cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng đồng ông ta có hiểu điều đó không, ông ta, người thận trọng nhất trong những kẻ tự lừa dối mình? Ông ta có tự thú nhận với mình vào giây phút cuối cùng, trong sự khôn ngoan của lòng can đảm trước cái chết không?... Socrate muốn chết - Không phải Nhã Điển mà chính là ông ta tự trao cho mình chén thuốc độc... “Socrate không phải là thầy thuốc”, ông ta thầm nhủ “Chỉ có cái chết mới là thầy thuốc ở đây... Chỉ có Socrate mới đau một cơn đau dài...”“Lí trí” trong triết hỏi tôi tất cả đặc chất nơi những triết gia là gì?... Chẳng hạn sự thiếu cảm thức lịch sử của họ, sự thù ghét ý tưởng về Biến Dịch của họ, chủ trương tồn cổ kiểu Ai Cập của họ. Họ tưởng họ làm vẻ vangmột sự việc khi họ tước bỏ khía cạnh lịch sử của nó, sub specie aeterni[19],- khi họ biến nó thành một xác ướp. Tất cả những ý tưởng mà những triết gia mân mê hàng năm chỉ là những ý tưởng xác ướp; không có gì thực thoát ra khỏi bàn tay họ mà còn sinh động. Họ giết, họ lột da, nhồi trấu khi họ tôn sùng, những vị sùng bái ý tưởng này, - họ trở thành một hiểm họa chết chóc cho tất cả mọi sự khi họ tôn sùng. Chết chóc, thay đổi, tuổi tác, cũng như sinh sản và trưởng thành đối với họ đều là những dị luận - những bác luận nữa. Cái đang hiện hữu không biến dịch; cái biến dịch không hiện hữu ... Bâygiờ họ hoàn toàn tin, tới độ tuyệt vọng nữa, vào Hữu Thể[20]. Nhưng vì họ không thể nắm được nó, họtìm kiếm lí do tại sao họ bị ngăn trở không đạt tới. Phải có một Hiển Thể[21], một sự lừa gạt, ngăn cản không cho chúng ta tri giác Hữu Thể kẻ lừa gạt ở đâu?” - “Chúng ta nắm được nó rồi”, họ sung sướng kêu lên; “đó là nhục cảm. Những giác quan này, đồng thời cũng rất vô luân , chính chúng lừa gạt chúng ta về thế giới chân thực. Luân lí thoát ra khỏi sự lừa gạt của giác quan, khỏi biến dịch, khỏi lịch sử lịch sử không là gì khác hơn sự tin tưởng vào giác quan, tin tưởng vào dối trái. Luân lí khước từ tất cả những kẻ tin vào giác quan, khước từ toàn thể nhân loại tất cả những kẻ đó đều thuộc về “quần chúng”. Là một triết gia, là một xác ướp, trình bầy thuyết monotonothéisme bằng cách bắt chướcđiệu bộ của phu đào huyệt! - Và trên hết, tẩy chay thân xác, cái idée fixe[22]đáng thương của những giác quan! Nhiễm đầy khuyết điểm của luận lí, bị bác bỏ, bất khả nữa, dù khá trơ trẽn khi cư xử như thể nó có thật...” Với một niềm kính cẩn vô biên, tôi đặt riêng tên tuổi Héraclite[23]sang một bên. Nếu tất cả bọn triết gia khước từ chứng cớ minh bạch của những giác quan bởi chúng cho thấy phức tính và biến chuyển, thì ông cũng khước từ chứng cứ minh bạch của bọn họ vì họ trình bày sự vật như thể chúng có trường cửu tính và nhất tính. Ngay cả Héraclite cũng bất công với những giác quan. Giác quan không lừa dối theo cách những triết gia trường phái Éléates tưởng, cũng không như ông tưởng - chúng không lừa dối bao giờ cả - Chính điều ta tạo nên từ chứng cớ minh bạch của chúng là cái đầu tiên du nhập sự dối trá vào; chẳng hạn sự dối trá của nhất thể, sự dối trá của thực tại, của bản thể, của trường cửu... Lí trí chính là nguyên do của sự xuyên tạc chứng cớ minh bạch của giác quan. Chừng nào mà giác quan chỉ sự biến dịch, sự chuyển biến, sự đổi thay, chúng không dối trá... Nhưng Héraclite sẽ mãi mãi đúng khi tuyên bố rằng Hữu Thể chỉ là một ảo tưởng rỗng tuếch. Thế giới “hiển lộ bề ngoài” là thế giới duy nhất thế giới “chân thực” chỉ là do sự dối trá thêm vào ... Và những giác quan của chúng ta là những dụng cụ quan sát tinh xảo biết bao! Cái mũi chẳng hạn, mà không triết gia nào không từng cung kính và biết ơn khi nói tới, ngay như cái mũi tạm thời là dụng cụ tế Hay làm cách nào triết lý với cây búaCuốn sách là một trong những di chúc triết học Nietzsche để lại cho hậu thế. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này với những ai đang vấp phải những trở ngại trên con đường tìm lại chính mình, để “trở thành chủ nhân cho hạnh phúc và bất hạnh của chính mình” như lời Nietzsche nói...“Tại sao quá cứng rắn?”. Than trong bếp một hôm hỏi kim cương. “Rút cục, chúng ta chẳng phải là bà con, họ hàng gần với nhau sao?”. “Tại sao quá yếu mềm?”. Hỡi các anh, ta cũng xin hỏi các anh như thế, các anh há chẳng phải là anh em với ta sao?Sao quá mềm, quá nhu nhược và dễ khuất phục làm vậy? Sao có quá nhiều sự chối bỏ và tự phủ định trong tâm các anh đến thế? Sao có quá ít định mệnh trong ánh mắt các anh nhìn?Và nếu các anh không muốn trở thành những định mệnh, những kẻ bất khuất, làm sao các anh có thể, một ngày kia, cùng ta - chiến thắng!Và nếu sự cứng rắn của các anh không muốn được chớp sáng và cắt đứt, làm sao các anh có thể, một ngày kia, cùng ta - sáng tạo!Bởi những kẻ sáng tạo đều cứng rắn. Và in dấu tay lên vách thiên thu nhẹ tựa như lên sáp ong mềm dường như phải là diễm phúc của các phúc được viết lên ý chí của thiên thu, tựa như trên đồng thau - cứng rắn hơn đồng thau, cao nhã hơn đồng thau. Chỉ kẻ cứng rắn nhất mới xứng danh là người cao nhã bảng khắc mới này, hỡi những người anh em, ta truyền trao lại cho các anh Hãy trở nên cứng rắn!Trên đây là lời kết từ cuốn sách của Nietzsche nhan đề Buổi hoàng hôn của những thần tượng - hay làm cách nào triết lý với cây búa, một trong những di chúc triết học Nietzsche để lại cho hậu như trong các tác phẩm bất hủ khác, đoạn trích này tự nó đã là một lời giới thiệu tốt nhất về cuốn sách, và có lẽ như thế đã là đủ để vẫy gọi những độc giả can đảm lên đường cùng hành trình và đối thoại với tác một nơi khác, Nietzsche viết “Những con người tâm linh sâu thẳm nhất, khi nhận họ là những kẻ can đảm nhất, đã trải nghiệm những bi kịch đau đớn nhất. Nhưng cũng chính vì lý do đó mà họ tôn vinh cuộc đời, bởi nó chống lại họ bằng sự đối kháng mãnh liệt nhất”.Nietzsche chính là một mẫu người như vậy. Thế nhưng giọng văn khắc nghiệt mà ông cố tình dùng, lối sống khắc nghiệt mà ông tự áp đặt lên chính cuộc đời mình, những lời phán quyết khắc nghiệt mà ông quyết định dành cho những thần tượng của mình và của loài người - tất cả chỉ là những minh chứng cho một tình yêu quá lớn ông dành cho con người, với thân phận và sứ mạng của chương Nietzsche toát ra khí phách, tinh anh của con người ông. Sống và viết, vì vậy, đối với Nietzsche là một. Cuộc đời và sự nghiệp trước tác của ông song hành và thống nhất với tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này với những ai đang vấp phải những trở ngại trên con đường tìm lại chính mình, để “trở thành chủ nhân cho hạnh phúc và bất hạnh của chính mình” như lời Nietzsche lụcLời giới thiệuKhai từChâm ngôn và tên nhọnVấn đề Socrate"Lý trí" trong triết học "Thế giới chân thực" cuối cùng trở thành một huyền thoại như thế nào? Luân lý như một cái gì phản tự nhiên Bốn sai lầm trầm trọng Những kẻ muốn "cải thiện" nhân loại Những cuộc ngao du của con người phi thời Tôi nợ những gì nơi cổ nhân Cây búa nói Lời cuối của người dịch Phụ lục Những năm tháng trọng đại trong cuộc đời NietzscheLời giới thiệu1. Năm 1888 trong cuộc đời và tư tưởng NietzscheMặt trời lên cao đỉnh rồi bùng vỡ trong Van Gogh trong năm 1888. Đó cũng chính là thời kì sáng tạo dữ dội nhất của ông. Bóng tối lưỡng lự đã bị lùa ra khỏi tranh. Bàn tay trở nên chính xác một cách tàn bạo. Nét cọ tung hoành như sấm sét. Màu sắc loé sáng trong khi tâm trí đã bắt đầu hôn ám. Nhưng trong buổi hoàng hôn của tâm thức đó, viễn tượng đã kết hợp một cách kì diệu với thực tại. Ngày 21 tháng 4 năm sau, Van Gogh viết cho em “Điều an ủi anh đôi chút là anh bắt đầu coi sự điên cuồng như một chứng bệnh giống như những bệnh tật khác, trong khi đó ngay cả trong những cơn khủng hoảng, anh thấy dường như tất cả những gì anh tưởng tượng trước kia đều là thực tại cả.”Và ông lăn xả vào công việc, vẽ từ sáng tới tối. Người ta kể lại rằng những người bạn đồng phòng với ông khi đi ra thấy ông đang vẽ một tấm tranh, vài giờ sau trở vào đã thấy ông vẽ một tấm tranh khác. Ông làm việc như kẻ bị quỉ ám, “j’ai une fureur sourde de travail plus que jamais” 9/1889. Ông không thể ra khỏi hội hoạ, nghĩa là ra khỏi thực tại, làm mồi cho điên cuồng và phiền não. “Trong tất cả mọi trường hợp, tìm cách trung thành với sự thực có lẽ là một phương thuốc để chống lại bệnh tật đang làm anh lo âu” thư cho Théo, 12 tháng 2 năm 1890. Có lẽ Vincent van Gogh linh cảm thấy rằng phần ánh sáng dành cho ông sắp hết và ông phải tận dụng nó, nhìn lần cuối cùng trong ánh sáng viễn tượng những thực tại đã bị thói quen giả dối chôn vùi. Trường hợp Nietzsche cũng tương tự như vậy. Năm 1888 là cực điểm sáng suốt và sáng tạo của Nietzsche, đồng thời cũng là cực độ của đau khổ và cô đơn của 12 tháng 2 năm 1888, Nietzsche viết cho bá tước Seydlitz “Bây giờ tôi cô đơn, cô đơn một cách phi lí; trong cuộc chiến tàn khốc và âm thầm mà tôi theo đuổi dưới uy thế Đảo Hoán mọi Giá Trị chống lại tất cả những gì đã được mọi người tôn sùng và quí trọng từ xưa tới nay, chính tôi đã trở thành một cái u hồn cốc mà không hay…” Trong tình cảnh đó ông chỉ cầu xin một điều “Sự thanh bình, quên lãng, sự khoan dung của mặt trời và của mùa thu cho một cái gì đang muốn chín tới, cho sự chứng thực và biện minh của toàn thể con người tôi…” thư cho Paul Dessen, 3 tháng Giêng năm 1888. Kết quả là năm tác phẩm cuối cùng, chín mùi nhất, mãnh liệt nhất của Nietzsche hoàn thành trong năm này Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Kẻ chống Chúa, Nietzsche chống Wagner, Ecce Homo và Tụng ca thực năm 1888 là cực điểm của cuộc đời và tư tưởng Nietzsche. Trước hết nó là cao độ của một thập niên đầy sáng tạo khởi đầu từ 1878 với Phàm phu, quá phàm phu, tác phẩm đầu tiên mà trong đó chan hoà ánh sáng thiên tài, kế đó Ý kiến tương hợp và châm ngôn1879, Lữ khách và bóng hình mình 1880, Bình minh 1881, Tri thức hân hoan 1882 - bổ túc thêm năm 1887, Zarathustra đã nói như thế 1883–1885, Phi thiện ác 1886 và Phổ hệ luân lí 1887. Song song những tác phẩm trên, trong nhiều thập niên này Nietzsche còn đưa ra nhiều tư tưởng dũng mãnh quanh chủ đề Ý chí hùng cường. Sang năm 1888, Nietzsche bỏ Ý chí hùng cường và thay thế bằng Cuộc đảo hoán mọi giá trị, trong đó Kẻ chống Chúa, là tác phẩm mở 1888 còn có ý nghĩa cực điểm trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche ở chỗ toàn bộ tác phẩm viết trong năm này là những cuộc duyệt xét lại và toát lược lại toàn thể những chủ đề triết lí của ông và của hai ngàn năm triết học Tây phương trong ánh sáng chói loà cuối cùng của tâm thức, ở một cao độ buốt giá, bằng một bút pháp sắc bén, cô đọng. Sau đó là bóng tối và yên lặng hoàn toàn. Đầu tháng Giêng 1889, tinh anh ông đã vỗ cánh bay cao, và ông không viết thêm một dòng nào nữa mặc dầu thể phách còn ngồi lại mười năm nữa, tới tháng 8 năm Buổi hoàng hôn của những thần tượngTác phẩm Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào người ta triết lí với cây búa? Götzen-Dämmerung, oder Wie man mit dem Hammer philosophiert? được viết trong khoảng thời gian từ cuối tháng Sáu tới đầu tháng Chín năm 1888 và được đem ấn hành vào tháng Mười cùng năm. Mới đầu tác phẩm mang tựa đề Sự nhàn rỗi của một tâm lí gia hay Những giờ nhàn cư của một tâm lí gia Müssiggang eines Psychologen. Nhưng sau đó, theo lời yêu cầu của Peter Gast, một cao đồ trung thành của Nietzsche, đòi ông phải tìm một tựa đề “huy hoàng” hơn cho tác phẩm, Nietzsche nhượng bộ, phỏng theo nhan đề vở Hoàng hôn của những thần thánh Götterdämmerung của Wagner, đặt lại là Hoàng hôn của những thần tượng Götzen-Dämmerung.Thần thoại Bắc Âu kể rằng tất cả mọi thần thánh đều có ngày tàn mạt, ngày họ tan biến vào hư vô. Đó là buổi hoàng hôn của thần thánh. Richard Wagner đã mượn thần thoại này để dựng vở kịch thứ tư trong bộ Tứ ca bộ kịch Tétralogie của ông, Nietzsche thay đổi tựa đề và cả ý nghĩa. “Thần tượng” là biểu tượng Nietzsche dùng để chỉ chân lí. “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự sụp đổ của mọi chân một thực tại, một ý tưởng, một lí tưởng, một chân lí, một “thần tượng” nào tác phẩm này không chạm tới. Từ những chân lí vĩnh cửu đến những chân lí, giá trị mới mẻ. “Một cơn gió lớn thổi qua rặng cây… và trái chín rụng rơi tơi tả những chân lí”. Ecce Homo. Nhưng những cái người ta có thể lượm trong tay chẳng có gì ngọt ngào. Vì đó chỉ là những trái thối hư, thực phẩm vô vị đã hết dưỡng chất của hai ngàn năm qua cần phải liệng bỏ. Tất cả mọi chân lí đều nhạt phai và phải xoá đi, mọi thần tượng đều hết thiêng liêng và phải tiêu diệt. Duy chỉ có cuộc đời là vĩnh cửu. Tất cả mọi hiểu biết đều sai lầm, mọi luân lí đều độc hại. Duy chỉ có bản năng là tốt là cuộc Tuyên chiến vĩ đại. Đây là cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lí trí, luân lí, tâm lí học, lòng ái quốc, vị tha, tình nhân loại… Đây là cuộc lột mặt nạ không thương tiếc những nhân vật, “những thần tượng” tượng trưng cho những chân lí, những giá trị cũ Socrate, Platon, thiện ác, đẹp xấu… và những “thần tượng” tượng trưng cho những chân lí và giá trị mới Renan, Rousseau, Sainte-Beuve, G. Eliot, George Sand, Schopenhauer, Comte, Kant, Schiller, Zola, Victor Hugo, Listz, Carlylle, nghệ thuật vị nghệ thuật, dân chủ, tiến bộ…Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác phẩm này những tư tưởng hữu thể học quan trọng nhất của Nietzsche. Đúng hơn, chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là hữu thể học truyền thống coi là “hữu thể chân thực” Wahres-Sein cái thực ra chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả đặc tính của phi thể Nicht-Sein và vô thể Nichts và chối bỏ, coi như “phi hữu” và phi thực cái thực ra là hữu thể đích thực và hữu thể duy nhất. Cái từ xưa tới nay, người ta coi là hiện thể đích thực, thực ra chỉ là mộng huyễn bào ảnh, trong khi cái từ xưa tới nay người ta coi là mộng huyễn bào ảnh lại chính là hiện thể chân thực. Cái từ xưa tới nay được coi là “hữu thể” Sein đối nghịch với biến dịch không có, trong khi chỉ có cái biến dịch hiện hữu mà thôi. Không có “hữu thể” siêu thời gian và không gian, cũng như không có tâm linh thế giới, Linh tượng giới le monde des idées hay thế giới của những ý tưởng vĩnh cửu mà chỉ có thế giới khả giác monde sensible, hiện hữu trong không gian thời gian. Không có thế giới tự nội monde en-soi, mà chỉ có thế giới hiển lộ monde des apparences. Không có thế giới khác mà chỉ có thế giới này, thế giới chân thực, duy nhất, linh động mà nguyên động lực là ý chí hùng dũng. Không có thế giới nào khác. Tất cả những ý nghĩ, khát vọng về một thế giới khác chỉ là cách trả thù cuộc đời “bằng sự lạm dụng ảo tưởng” về một cuộc đời “tốt đẹp hơn”. Sự chia thế giới ra làm một thế giới “tự nội” và một thế giới “bề ngoài” là dấu hiệu của sự suy đồi- một triệu chứng của sa đoạ. “Sự kiện người nghệ sĩ đặt bề ngoài lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “bề ngoài” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa, nhưng mà là dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai… Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm,- hắn gật đầu nói “ừ” trước tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp của cuộc đời, hắn là kẻ theo Dionysos”.Chương quan trọng nhất và cũng là trọng tâm của tác phẩm là chương “Lí trí trong triết học”. Trước đó là “Vấn đề Socrate”, sau đó là “Luân lí như một cái gì phản tự nhiên”. Trước kia Nietzsche lên án khoa học, triết học vì chúng bị đầu độc bởi luân lí. Bây giờ Nietzsche lên án luân lí, triết học, khoa học bởi chúng bị đầu độc bởi lí trí, hay đúng hơn, bởi những sự lầm lẫn lớn lao của lí luận. Những triết gia lầm lẫn lấy hậu quả làm nguyên nhân, nguyên nhân làm hậu quả. Nietzsche bài bác gắt gao phương trình quái gở và bệnh hoạn này của Socrate lí trí = đức hạnh = hạnh phúc. Socrate, Platon là những triệu chứng suy đồi. Thế nào là suy đồi décadence? “Bị bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng đó là định thức của suy đồi, khi cuộc đời hướng thượng, hạnh phúc và bản năng là một.” Tất cả mọi sự tốt lành đều thuộc bản năng. Alles Gute ist Instinkt. Nietzsche coi như có bổn phận chống lại quan niệm cho Thượng Đế = thế giới khác của “hữu thể chân thực”. Vì quan niệm như thế, người ta bắt buộc phải coi rẻ những thực tại trần gian mà giác quan chứng nghiệm, khi coi chúng là hiển thể Schein không thực thể, và đi đến chỗ khước từ cuộc sống nhục cảm, lành mạnh, coi như “tội lỗi”. Theo Nietzsche, với Thượng Đế, người ta đặt thành tuyệt đối thể một hữu thể tưởng tượng, phi thời gian bên trên những thực tại trần gian, những cái duy nhất có thực thể trong dòng biến dịch. Một Thượng Đế, nếu được quan niệm như thế, sẽ làm nền tảng cho một thứ luân lí vô cùng nguy hại cho con người và cuộc đời. Đó là một hữu thể học luân lí hoá hay một luân lí hữu thể học hoá. Cần phải giải phóng hiện thể khỏi thứ hữu thể học hay luân lí này. Đó là một nhiệm vụ nặng nề mà Nietzsche gọi là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị”. Đó là công việc của người nghệ sĩ bi tráng, kẻ nói “ừ” trước tất cả mọi hồ nghi và khủng khiếp. Người nghệ sĩ bi tráng chọc thủng hiển thể để đạt tới thực thể một cách can đảm. Hắn dám chấp nhận cái chết của Thượng Đế và dám đập “bằng cây búa” tất cả những chân lí cắm rễ sâu nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống và thừa can đảm để gây nên những “âm thanh trống rỗng” của buổi chiều tà. Đi vào “Hoàng hôn của những thần tượng” và đương đầu với “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” là những sứ mệnh lịch sử của người nghệ sĩ bi tráng cũng như của tất cả những tinh thần tự do không chấp nhận làm rêu mốc bám trên những bậc thềm, những bờ tường nứt nẻ của những miếu đường hoang vắng nữa. Nếu “Hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự lạm phát của mọi chân lí, mọi giá trị thiết định lấy “thế giới chân thực” bên ngoài trần gian, bên kia đời sống làm bản vị, coi những kẻ bạc nhược sa đoạ là những kẻ làm giấy bạc, coi đền thờ là những ngân hàng và Thượng Đế là kẻ chế tài thì “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” chính là sự phá giá của tất cả những chân lí, những giá trị đó. Cả hai đều là những giai đoạn tất yếu và cần phải vượt qua của lịch sử. Chân lí, trần gian, cuộc đời sẽ và chỉ thuộc về những kẻ chân thực, dám đốt đi những bản di chúc hứa hẹn huy hoàng nhưng giả dối và giả tạo như tấm ngân phiếu không tiền bảo chứng, những kẻ sau khi buông rời cây búa phá huỷ còn đủ sức mạnh cầm tay cầy khai phá cánh đồng khả thể, khơi mở dòng đời, tạo dựng đời sống trong dòng Hồn nhiên của Biến Song luậnSự thức tỉnh của nhân loại bắt đầu với song luận này “Hoặc chúng ta phá huỷ sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta phá huỷ chính chúng ta” Der Will zur Macht, III Chúng ta đã phải trả giá khá đắt cho những “chân lí” thiêng liêng, những sai lầm in physiologicis Ibid, II Nietzsche tự coi như bổn phận việc “sửa soạn cho nhân loại một giây phút tuyệt vời trở về chính mình, một buổi giữa ngọ rực rỡ để quay về quá khứ và đưa mắt nhìn về tương lai, để rũ khỏi ách đô hộ của tình cờ và của những giáo sĩ và đặt câu hỏi tại sao và thế nào trong toàn bộ của nó lần thứ nhất, bổn phận này thiết yếu bắt nguồn từ lòng xác tín rằng nhân loại tự mình đã không đi theo đúng chính đạo, đã không được điều động bởi một thần tính mà trái lại đã để bị lôi cuốn và chế ngự bởi một bản năng tiêu cực, hư hỏng, bởi bản năng suy đồi mà nhân loại đặt lên hàng những giá trị tối thiêng liêng” Ecce Homo, III, 2, vì thế “sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này từ xưa tới này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí”, hay cũng có thể nói như một con cú vọ chuyên soi mói những khía cạnh đen tối cuộc đời và thốt lên những tiếng bi ai. Đó là sự khôn ngoan của tinh thần nặng nề, tìm sự giải thoát bằng cách tiêu diệt ý chí sống. Nietzsche gây chiến chống lại chủ trương tiêu cực mệt mỏi đó. Kết quả của nỗ lực bền bỉ, can đảm, cứng cỏi, âm thầm này là sự hân hoan hay “tri thức hân hoan” theo ngôn ngữ Nietzsche. “Kẻ nào trèo lên núi cao, kẻ ấy tự cười mọi bi kịch giả tạo hay có thực.” Trên bàn thờ những giá trị mới, tiếng cười chiến thắng đã thay thế tiếng thở dài đầu hàng. “Tôi đã phong thánh tiếng cười, hỡi những con người siêu đẳng, hãy học cười!”. Bằng tiếng cười hồn nhiên ròn rã, chúng ta quét sạch mọi thần tượng trang trọng đăm chiêu và đón chào một thế giới tinh khôi rực Hữu Hiệu Vạn Hạnh, 26-09-1971Khai từDuy trì được sự thanh thản giữa một sự vụ u sầu và có thể biện minh quá độ chừng đâu phải là một nghệ thuật không đáng kể tuy nhiên có điều gì cần thiết hơn thanh thản chăng? Chẳng việc gì thành công nếu lòng hăng hai chẳng tham dự vào. Chỉ có sự thặng dư của sức mạnh mới là bằng chứng của sức mạnh. Đảo hoán mọi Giá Trị, dấu hỏi quá đen, quá lớn hắt bóng tối lên kẻ đặt ra nó, -định mệnh của một công việc như vậy buộc người ta từng giây phút phải lao thẳng vào mặt trời, rũ bỏ vẻ trang nghiêm đã đè ta quá nặng. Tất cả mọi phương tiện đều được biện minh, mọi “cơ hội” đều là cơ hội tốt. Trên tất cả, chiến tranh. Chiến tranh luôn là sự minh mẫn thận trọng ghê gớm của tất cả những tinh thần đã trở nên quá chuyên tâm, của tất cả những tinh thần đã trở nên quá thẳm sâu; khả năng chữa trị đã nằm ngay trong vết thương. Một câu phương ngôn mà xuất xứ tôi cố tình dấu nhẹm óc tò mò trí thức, từ lâu đã trở thành phương châm của tôiincrescunt animi, virescit volnere virtus [1]Một hình thức chữa trị khác, trong một vài trường hợp còn thích hợp với tôi hơn nữa, đó là thăm dò những thần tượng… Trên thế giới có nhiều thần tượng hơn là thực tại đó là “ác nhãn” của tôi đối với thế giới này, đó cũng là “ác nhĩ” của tôi nữa… Ở đây đặt ra những câu hỏi với một chiếc búa và có thể nhận được như một hồi âm cái âm thanh trống rỗng thốt lên tự lòng hiu hiu tự đắc - thích thú thay cho kẻ nào có một đôi tai khác nữa sau đôi tai của mình, - đối với tôi, một tâm lý gia và một kẻ đánh bẫy chuột cố cựu, trước sự hiện diện của kẻ đó quả thực những gì muốn thủ khẩu như bình cũng phải thốt lên tiếng nói…Cả cuốn sách này nữa - nhan đề đã bộc lộ nội dung - trước hết là một sự giải trí, một chấm ánh sáng, một cuộc đào thoát vào những giờ nhàn rỗi của một tâm lý gia. Có thể còn là một cuộc chiến tranh mới nữa? Và biết đâu có thể bắt được quả tang những bí mật của những thần tượng mới?... Cuốn tiểu luận này là một cuộc khai chiến vĩ đại; còn về vấn đề nhằm thăm dò những thần tượng, lần này không phải là những thần tượng thời đại mà là những thần tượng vĩnh cửu ở đây sẽ bị đụng chạm đến bằng một chiếc búa như thể bằng cái âm thoa - cuối cùng không còn những thần tượng cổ kính nữa… Cũng không còn những thần tượng trống rỗng nữa… Nhưng điều đó không ngăn cản được người ta tin tưởng nhất; cũng như không ngăn cản người ta, ngay cả trong những trường hợp cao quí nhất, không gọi là thần tượng nữa…Turin, 30 tháng Chín, 1888, ngày hoàn tất cuốn sách đầu tiên của Cuộc đảo hoán mọi Giá Trị[2]Friedrich NietzscheChâm ngôn và tên nhọn1. Nhàn cư là khởi đầu của tất cả mọi tâm lý học. Sao? tâm lý học có thể là… một tật xấu?2. Ngay cả kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng ít khi có đủ can đảm khẳng định điều hắn thực sự Để sống một mình người ta phải là một con vật hay một thần thánh - Aristote nói như vậy. Còn có trường hợp thứ ba nữa người ta phải vừa là thú vật vừa là thần thánh - đó là triết “Tất cả mọi chân lý đều đơn giản.”- Đó không phải là một lời dối trá phức tạp sao?5. Nói một lần dứt khoát, có nhiều điều tôi không muốn biết. - Minh triết vạch ra những giới hạn, ngay cả đối với hiểu Chính vì trong bản chất của người ta có chất man rợ mà người ta có thể khôi phục lại được sự ác tà của mình, tôi muốn nói tâm linh tính…7. Sao? Con người chỉ là một sự nhầm lẫn của Thượng Đế hay Thượng Đế chỉ là một sự nhầm lẫn của con người?8. Trường chiến tranh của Cái gì không giết tôi khiến tôi mạnh mẽ Hãy tự giúp mình rồi tất cả sẽ trợ giúp mình. Nguyên tắc bác ái của Kitô Chúng ta đừng hèn nhát trước những hành động của chúng ta! Chúng ta đừng bỏ rơi chúng ta trong cơn bối rối! - Sự hối hận của lương tâm là điều khiếm Con lừa có thể bi thảm không? - Bị đè bẹp dưới một gánh nặng mà người ta không thể mang cũng không thể quẳng đi?... Trường hợp của triết Nếu người ta - thủ hữu câu hỏi tại sao của cuộc đời, người ta sẽ quen với bất cứ câu hỏi thế nào nào - Con người không khát vọng hạnh phúc; chỉ có người Ăng Lê làm vậy Người đàn ông đã tạo ra người đàn bà - nhưng bằng gì vậy? Bằng xương sườn Thượng Đế của hắn, - bằng lý tưởng của hắn…14. Sao? Bạn đang tìm kiếm gì? Bạn muốn nhân bạn lên một chục lần? Một trăm lần? Bạn tìm kiếm những kẻ theo mình? - Tìm hư không! [3]15. Những con người sống lại sau khi đã chết [4] - như tôi chẳng hạn - ít được hiểu hơn những người sống phù thời, nhưng họ được người ta lắng nghe chăm chú hơn. Nói rõ hơn chúng ta không bao giờ được hiểu cả - và đó chính là quyền uy của chúng Giữa đám quần thoa. - “Chân lý! Ồ! Chị không biết chân lý là gì rồi! Nó chẳng phải là một toan tính xâm phạm pudeur [5] của chúng ta sao?17. Đây là một nghệ sĩ, như những nghệ sĩ tôi yêu, đơn giản trong nhu cầu hắn thực sự cần có hai điều bánh mì và nghệ thuật của hắn, - panem et Circen…18. Kẻ nào không biết đặt ý chí của mình vào sự vật, muốn ít nhất đặt vào trong đó một ý nghĩa điều đó khiến hắn tưởng trong đó đã hàm chứa một ý chí nguyên tắc “tin tưởng”.19. Sao? Bạn đã chọn đức hạnh và tâm hồn cao thượng đồng thời lại ghen ghét nhìn lợi lộc của những kẻ thô lỗ phóng tâm trục vật? Nhưng với đức tính người ta khước từ “lợi lộc” mà… để viết trên cửa nhà những kẻ bài Do Thái.20. Một người đàn bà hoàn toàn xúc phạm văn chương cũng như nàng phạm một tội lỗi nhỏ để thử chơi, trong khi quay đầu lại ngó xem ai có để ý không, và để cho một người nào đó để ý…21. Phải đặt mình vào những hoàn cảnh trong đó người ta không được có những đức tính giả hình, nhưng trong những hoàn cảnh ấy, tựa như một người múa trên dây hoặc là người ta té hoặc đứng thẳng hoặc từ bỏ…22. “Những người độc ác không biết hát”. Vậy thì tại sao những người Nga lại biết hát?23. “Tinh thần Đức” từ mười tám năm nay [6] là một contradictio in adjecto [7] .24. Vì muốn tìm nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con tôm [8] . Nhà sử học nhìn lại đằng sau cuối cùng ông ta tin tưởng vào phía Sự thoả mãn bảo vệ người ta khỏi ngay cả sự cảm lạnh. Một người đàn bà biết mặc áo quần đầy đủ có cảm lạnh không nhỉ? - Tôi giả thiết trường hợp nàng mặc quần áo mong Tôi hồ nghi tất cả những người muốn thiết lập hệ thống và tránh xa họ. Ý muốn lập hệ thống là sự thiếu ngay thẳng thanh Người ta nói rằng người đàn bà sâu sắc - tại sao? Bởi vì người ta không bao giờ tới được đáy sâu của họ. Người đàn bà không hời hợt Khi người đàn bà có những đức tính đàn ông, người ta lảng tránh nàng, và nếu nàng không có những đức tính ấy, nàng sẽ chạy trốn chính Trước kia lương tâm phải cắn nhiều xiết bao! Nó có bộ răng tốt biết mấy! Và ngày nay? Có chuyện gì trục trặc xảy ra? - Vấn đề của nha Ít khi người ta phạm nguyên chỉ một lỗi lầm khinh xuất. Với lỗi lầm khinh xuất đầu tiên, người ta luôn làm quá. Chính vì lý do đó, người ta thường phạm lỗi thứ hai - và bây giờ thì lại quá Khi bị giẫm chân lên, con con sâu sẽ cuộn mình lại. Đó là tính thận trọng khôn ngoan. Bằng cách đó nó giảm dần tai hoạ bị giẫm lên trên lần nữa. Nói theo ngôn ngữ đạo đức lòng khiêm Sự ghét dối trá và che đậy có thể khởi lên từ quan niệm thái quá về danh dự; sự khinh ghét tương tự có thể khởi lên từ lòng hèn nhát, vì sự dối trá bị cấm bởi luật thiêng liêng. Quá hèn nhát để nói dối…33. Cần ít biết chừng nào để được hạnh phúc! Tiếng sáo mục tử. - Không âm nhạc cuộc đời sẽ là một lỗi lầm. Người Đức còn tưởng tượng ngay cả Thượng Đế như một người đang ca hát On ne peut penser et écrire qu’assis [9] G. Flaubert - Thế là ta tóm được ngươi rồi, kẻ theo hư vô chủ nghĩa! Ngồi đúng là phạm tội với Thánh Linh. Chỉ có những tư tưởng đến với ta khi đang bước đi mới có giá trị mà Có những trường hợp chúng ta giống như những con ngựa, chúng ta, những tâm lý gia, và chúng ta trở nên bồn chồn sợ hãi chúng ta nhìn thấy bóng chúng ta chập chờn trước mặt mình. Tâm lý gia phải quay mặt đi đừng nhìn mình để có thể nhìn thấy tất Chúng ta có gây tổn thất gì cho đức hạnh không, chúng ta những kẻ vô luân? - Cũng ít như những kẻ vô chính phủ làm hại những ông hoàng vậy thôi. Chỉ khi nào đã bị bắn rồi họ mới có thể ngồi lại một cách vững vàng trên ngôi. Luân lý người ta phải bắn bỏ luân Bạn chạy trước những người khác? - Bạn làm như vậy như một mục tử? Hay như một kẻ ngoại hạng? Trường hợp thứ ba có thể như một kẻ đào ngũ… Câu hỏi thứ nhất của lương Bạn chân thật? Hay chỉ là một kẻ đóng trò? Một đại diện? Hay chi rlà một kẻ được đại diện? Cuối cùng có lẽ bạn chỉ bắt chước kẻ đóng trò… Câu hỏi thứ hai của lương Kẻ bất mãn nói. - Tôi tìm kiếm những vĩ nhân nhưng bao giờ cũng chỉ tìm thấy con khỉ bắt chước lí tưởng của Bạn là kẻ ngắm nhìn? Hay một kẻ bắt tay vào công việc? - Hay một kẻ ngó lơ quay đi chỗ khác… Câu hỏi thứ ba của lương Bạn muốn đi chung cùng bạn hữu? Hay dẫn đầu? Hoặc đi riêng lẻ một mình?... Người ta phải biết mình muốn gì và phải biết rằng mình muốn. - Câu hỏi thứ tư của lương Đối với tôi chúng chỉ là những bậc thang và tôi đã bước lên chúng - do đó tôi phải vượt qua chúng. Nhưng chúng lại tưởng rằng tôi muốn ngồi lên Có quan hệ gì việc tôi giữ lẽ phải! Tôi có quá nhiều lẽ phải. - Và kẻ nào cười nhiều hôm nay cũng sẽ là kẻ cười cuối Định thức hạnh phúc của tôi một tiếng ừ, một tiếng không, một con đường thẳng, một mục tiêu…█Vấn đề Socrate1. Bàn về cuộc đời, những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại đều đưa ra một phán đoán tương tự như nhau cuộc đời vô giá trị… Bất cứ ở đâu và bao giờ cũng vậy người ta đều nghe thấy câu nói đó thốt ra từ miệng họ. - Một câu nói đầy nghi ngờ, đầy phiền não, đầy chán chường cuộc đời, đầy khinh miệt cuộc đời. Ngay cả Socrate cũng nói lúc lâm chung “Sống - là đau bệnh một thời gian lâu dài Ta nợ đấng cứu nhân độ thế Esculape một con gà [10] ” Ngay cả Socrate cũng chán mứa cuộc đời. - Điều đó chứng tỏ gì? Điều đó muốn trỏ cái gì?- Ngày xưa có lẽ người ta sẽ nói - Ồ, người ta đã nói rồi và nói khá lớn, nhất là những kẻ bi quan của chúng ta “Chắc chắn phải có một cái gì chân thực ở đây! Consensus sapientium [11] là bằng chứng của chân lý.” – Ngày hôm nay chúng ta sẽ còn nói như thế không? Chúng ta còn được phép làm thế không? “Chắc chắn phải có một cái gì bệnh hoạn ở đây” - đó là câu trả lời của chúng ta. Những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại, ta phải nhìn họ thật gần! Có thể tất cả những người đó chân không còn đứng vững? Chậm trễ? Run rẩy? Décadents [12] biết đâu? Có lẽ sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí?2. Quan niệm bất kính cho rằng những bậc hiền nhân vĩ đại là những mẫu sa đoạ [13] khởi lên trong tôi chính trong trường hợp trong đó thành kiến bác học và thành kiến vô học đối chọi nhau kịch liệt tôi nhận ra Socrate và Platon như những triệu chứng suy đồi, như những công vụ của sự băng hoại của Hy Lạp, như những kẻ nguỵ Hy Lạp, như những kẻ bài Hy Lạp Sự khai sinh của bi kịch, 1872. Sự consensus sapientium - như càng ngày tôi càng thấy rõ - chẳng chứng tỏ một chút nào rằng họ có lý về điều mà họ đồng ý với nhau nó chỉ chứng tỏ rằng chính họ, những kẻ khôn ngoan nhất, một cách nào đó về phương diện sinh lý, họ tương tự như nhau để có cùng một thái độ như nhau đối với cuộc đời - để bắt buộc phải có thái độ đó. Sau hết, những phán đoán và những thẩm định giá trị về cuộc đời, dù tán dương hay chống lại, đều không thể đúng được giá trị đích thực của chúng nằm trong sự kiện chúng là những triệu chứng; chúng chỉ có thể được coi như là triệu chứng mà thôi - trong tự thể những phán đoán này là những điều xuẩn ngốc. Chúng ta phải cố gắng bằng mọi cách để lãnh hội sự tế nhị siêu phàm này là giá trị của cuộc đời không thể thẩm định được [14] . Không thể thẩm định được bởi một người còn sống, bởi hắn là thành phần, là đối tượng của chính cuộc tranh luận nữa, chứ không phải là quan toà; cũng không thể bởi một người đã chết vì một lý do khác. - Về phần một triết gia, nhìn một vấn đề trong giá trị của cuộc đời, là một vấn nạn chống lại chính hắn, một dấu hỏi về sự khôn ngoan của hắn, một sự thiếu khôn ngoan [15] nữa - Sao? Tất cả những người khôn ngoan vĩ đại này - không những họ là những décadents mà họ còn không khôn ngoan nữa sao? - Nhưng tôi xin trở lại vấn đề Xét về nguồn gốc, Socrate thuộc về đẳng cấp thấp hèn nhất Socrate thuộc dòng hạ lưu. Người ta biết, người ta có thể thấy ông ta xấu xí biết chừng nào nữa. Nhưng sự xấu xí tự nó đã là một vấn nạn, hầu như là một bác luận nơi người Hy Lạp. Socrate có đúng là người Hy Lạp không? Sự xấu xí thường là dấu hiệu của một sự phát triển bị ngăn chặn, một sự phát triển bị cản trở bởi sự pha giống. Trong trường hợp khác, nó hiện ra như một sự phát triển suy đồi. Những nhà nhân chủng học chuyên khảo về tội ác học tuyên bố rằng kẻ tội phạm đặc trưng xấu xí monstrum in fronte, monstrum in animo [16] . Nhưng kẻ tội phạm là một kẻ décadent [17] . Socrate có phải là một kẻ tội phạm đặc trưng không? - Dù sao điều đó cũng không trái ngược với ý kiến của nhà chuyên coi tướng mạo, ý kiến khiến bằng hữu của Socrate tức giận. Trong khi đi qua thành Nhã Điển, một người ngoại quốc biết coi tướng mặt đã nói thẳng vào mặt Socrate rằng ông ta chỉ là một quái vật, ông ta chứa dấu trong mình tất cả những tật xấu và những khát vọng đồi bại. Và Socrate chỉ đáp “Thưa ông, ông biết tôi rõ lắm”.4. Không những sự hoang đàng và hỗn loạn của bản năng chỉ sự décadence nơi Socrate mà sự bội dư của những khả năng luận lý, và sự độc ác méo mó còn là những đặc tính nổi bật nơi ông ta nữa. Chúng ta đừng quên rằng những ảo tưởng thính giác, dưới danh từ “con quỷ của Socrate”, được diễn giải theo một ý nghĩa tôn giáo. Tất cả mọi sự nơi ông ta đều quá đáng, hài hước, hoạt kê, đồng thời đều dấu diếm, có ẩn ý, tà khuất. Tôi cố gắng tìm hiểu xem đặc tính nào đã có thể khai sinh ra cái phương trình Socrate này lí trí = đức hạnh = hạnh phúc cái phương trình quái gở nhất, và đặc biệt, nghịch lại tất cả mọi bản năng Hy Lạp Với Socrate, thị hiếu Hy Lạp biến đổi theo chiều thuận lợi cho biện chứng pháp thực ra điều gì đã xảy ra? Trước hết, thị hiếu cao nhã đã biến mất; với biện chứng pháp, đám hạ lưu len chân tới thượng đỉnh. Trước Socrate, những lề lối biện chứng bị khai trừ trong xã hội thượng lưu chúng bị coi như những kiểu cách xấu xa, chúng có tính cách thoả hiệp bình dân. Thanh niên được cảnh giác lánh xa. Người ta còn nghi kị cả những kẻ trình bầy lý lẽ của mình. Những sự việc lương thiện cũng như những con người lương thiện không mang phơi trần những lý lẽ của mình cách ấy. Phơi bầy cái tốt lành của mình là điều vô phép. Cái cần phải chứng rỏ không có giá trị bao nhiêu. Bất cứ nơi nào mà uy quyền hãy còn thuộc tập tục tốt, bất cứ nơi nào mà người ta không “luận lý” mà chỉ ra lệnh, thì nhà biện chứng pháp là một thứ hề hắn bị chế nhạo, hắn không được coi trọng. Socrate là tên hề thành công trong việc bắt người khác coi mình là trọng vậy thì chuyện gì đã thực sự xảy ra?6. Người ta chỉ chọn biện chứng pháp khi nào không còn cách nào khác. Người ta biết rằng biện chứng pháp gây ra nghi ngờ, rằng nó không hùng hồn lắm. Không có gì dễ xoá bỏ hơn hiệu quả biện chứng sự kiện này được chứng minh trong những cuộc hội thảo. Nó chỉ có thể là sự tự vệ cuối cùng của những người không có khí giới. Người ta phải dành giật quyền hành của mình nếu không, người ta không dùng đến nó. Đó là lý do tại sao, những người Do Thái đều là những nhà biện chứng; Lão Cáo- già [18] là nhà biện chứng sao vậy? Socrate cũng là một nhà biện chứng sao?7. Sự hài hước của Socrate là một biểu lộ của phản kháng? Của lòng hờn oán của đám hạ lưu? Ông ta có thích thú nếm mùi tàn bạo của chính mình trong mũi dao nhọn của tam đoạn luận, như một kẻ bị áp chế không? Ông có trả thù những người quí phái ông dụ hoặc không? - Là một nhà biện chứng, người ta nắm trong tay một khí cụ tàn nhẫn; với sự trợ giúp của nó người ta có thể làm một bạo chúa; người ta thoả hiệp trong khi chiến thắng. Nhà biện chứng để nó lại cho địch thủ để chứng tỏ rằng hắn không phải là một tên ngốc hắn làm người ta nổi điên và đồng thời trở nên bơ vơ không nơi nương tựa. Nhà biện chứng bất lực hoá trí tuệ đối thủ. Sao? Biện chứng pháp chỉ là một hình thức trả thù trong trường hợp Socrate?8. Tôi đã cho thấy bằng cách nào Socrate có thể làm người ta xa lánh bây giờ điều quan trọng nhất là giải thích sự kiện ông ta đã mê hoặc cách nào. Ông ta đã khám phá ra một nghệ thuật chiến đấu mới, ông ta là kiếm sư đầu tiên của những giới quí tộc ở Nhã Điển, đó là lý do thứ nhất. Ông ta mê hoặc bởi ông ta khêu gợi những bản năng hiếu chiến của người Hy Lạp, - ông ta đã đưa vào trường đô vật giữa người lớn và thanh niên một sự thay đổi. Socrate còn là một người đại dâm Nhưng Socrate còn tiên đoán nhiều cái khác nữa. Ông ta nhìn thấu suốt những nhà quí phái Nhã Điển; ông ta thấy rằng trường hợp của ông ta, trường hợp riêng của ông ta, chẳng phải là trường hợp ngoại lệ phi thường, ngay cả trong thời đại ông ta. Sự suy đồi tương tự thầm lặng sửa soạn ở khắp nơi thành Nhã Điển cổ kính đang hấp hối. Và Socrate hiểu rằng toàn thể thế giới cần ông ta - cần phương thuốc, cách chữa trị, phương thức tự bảo tồn đặc biệt của ông ta. Ở khắp nơi, những bản năng đều ở trong tình trạng hỗn loạn; khắp nơi người ta chỉ cách xa sự thái quá có một bước monstrum in animo là hiểm hoạ chung. “Bản năng muốn đóng vai bạo chúa chuyên chế; cần phải tạo ra một phản bạo chúa mạnh hơn”… Khi nhà chuyên coi tướng mạo đã cho Socrate thấy con người thực của ông ta, một miệng núi lửa đầy rẫy mọi khát vọng xấu xa, nhà đại hài hước này đã thốt ra một câu cho chúng ta một cái chìa khoá mở vào bản chất của ông ta. “Điều đó đúng, nhưng tôi đã chế ngự được tất cả.” Bằng cách nào Socrate đã tự chủ được chính mình? Trường hợp của ông ta, rốt cuộc cũng chỉ là trường hợp thái quá, một thí dụ rõ rệt nhất của một trạng thái tuyệt vọng đang bắt đầu trở thành phổ quát không ai còn có thể tự làm chủ mình nữa, những bản năng đang trở nên chống đối lẫn nhau. Ông ta cám dỗ vì là thí dụ thái quá của trạng thái này - sự xấu xí khủng khiếp của ông ta khiến mọi mắt nhìn đều tỏ rõ ông ta còn cám dỗ hơn nữa, điều đó tự nhiên, như một câu trả lời, như một phương sách, như một cách chữa trị hiển nhiên của trường hợp Khi người ta thấy cần phải biến lí trí thành một bạo chúa chuyên chế, như Socrate đã làm, thì hiểm hoạ một cái gì khác cũng muốn thủ vai bạo chúa chuyên chế không phải là nhỏ. Chính lúc đó lí trí được khám phá như một đấng cứu thế. Cả Socrate lẫn những “kẻ bệnh hoạn” không được tự do chọn có lí hay không có lí điều đó tính cách de rigueur, đó là phương thuốc cuối cùng của họ. Sự cuồng tín mà toàn thể tư tưởng Hy Lạp nhào vào lí trí tố cáo một tình trạng khẩn trương như người ta đang trong cơn hiểm hoạ, người ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất hoặc là chìm đắm tận đáy hoặc - lí trí một cách phi lí… Chủ trương đạo đức của những triết gia Hy Lạp từ Platon bị điều kiện hoá của một cách bệnh hoạn; sự thẩm định về biện chứng pháp của họ cũng vậy. Lí trí = đức hạnh = hạnh phúc chỉ có nghĩa người ta phải bắt chước Socrate và đương đầu với những đam mê đen tối bằng cách thường trực tạo ra ánh sáng ban ngày - ánh sáng lí trí. Phải thận trọng, sáng sủa, minh bạch bằng mọi giá tất cả mọi nhượng bộ cho bản năng, vô thức đều đưa xuống dốc…11. Tôi đã cho thấy cách mà Socrate cám dỗ ông ta có vẻ là một thầy thuốc, một đấng cứu thế. Có cần phải vạch ra sự sai lầm trong niềm tin vào “lí trí với bất cứ giá nào” của ông ta nữa không? - Đó là một sự tự lừa dối về phía những triết gia và những nhà luân lí khi họ tin tưởng rằng họ thoát ra khỏi sự décadence bằng cách gây chiến với nó. Điều đó ở trên khả năng của họ cái họ chọn lựa như một phương thuốc, như một phương tiện cứu chuộc, lại chỉ là một sự biểu lộ khác của sự décadence - họ chỉ thay đổi cách biểu lộ của nó, chứ họ không huỷ bỏ được chính nó. Socrate là một sự ngộ nhận; toàn thể luân lí nhằm cải thiện, kể cả luân lí Kitô giáo là một sự ngộ nhận… Ánh sáng chói lọi nhất, lí trí với bất cứ giá nào, đời sống minh bạch, lạnh lùng, thận trọng, ý thức, không phải bản năng, chống lại bản năng, chỉ là một sự bệnh hoạn, một thứ bệnh hoạn mới - chứ không phải là một sự trở về “đức hạnh”, “sức khoẻ”, hạnh phúc… Bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng - đó là định thức của sự décadence chừng nào mà cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng đồng Tự ông ta có hiểu điều đó không, ông ta, người thận trọng nhất trong những kẻ tự lừa dối mình? Ông ta có tự thú nhận với mình vào giây phút cuối cùng, trong sự khôn ngoan của lòng can đảm trước cái chết không?... Socrate muốn chết - Không phải Nhã Điển mà chính là ông ta tự trao cho mình chén thuốc độc… “Socrate không phải là thầy thuốc”, ông ta thầm nhủ “Chỉ có cái chết mới là thầy thuốc ở đây… Chỉ có Socrate mới đau một cơn đau dài…”[1]Tinh thần lớn mạnh, sức khoẻ gia tăng bởi vết thương - Ghi chú của Dịch giả Kẻ chống Chúa - Nullen! “Nullen” có nghĩa là không ai cả, số không và đồng thời cũng có nghĩa là Hư không. - menschen. Nietzsche thường tự coi mình như một con người sống phi thời gian unzeitghe mäss, trên thời gian, độc lập với thời đại, sống như một cái bóng trong lúc sinh thời và chỉ hồi sinh, sống động sau khi đã chết đi. Con người thuộc về tương lai, sống cho và sống với thế hệ mai hậu. CT. “Những suy tưởng phi thời” Unzeitgemässe Betrachtungen. - văn trong nguyên bản “Ist sie nicht ein Attentat auf alle unsre pudeurs?” “Nó không phải là sự xâm phạm tiết hạnh của chúng ta sao?” - từ ngày thành lập Reich Đế Quốc[7]Trái ngược về thời gian[8]Có lẽ phải viết “Vì muốn tìm về nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con cua”. Nhưng Nietzsche viết “Damit, dass man nach den Anfăngen sucht, wird man Krebs” - văn trong nguyên bản “Người ta chỉ có thể suy tưởng và viết khi ngồi.” - hay Asklêpios viết theo tiếng Hy Lạp, là Thần Y thuật hay tổ sư nghề thuốc.[11]La văn sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan. “Der consensus sapientium beweist die wahrrheit” “Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.”[12]Pháp văn trong nguyên bản suy đồi, một trong những khai ngữ của Nietzsche, chỉ những kẻ bi quan, hướng vọng quá khứ, Thiên Đàng, Thượng Đế và tuyệt vọng - – Typen - Wert des Lebens nicht abgeschätzt werden kann.[15]Nietzsche công kích Engène Dühring, tác giả Giá trị của cuộc đời - văn trong nguyên tác một quái vật trên nét mặt, một quái vật trong linh hồn.[17]Nietzsche phân biệt hai thứ tội phạm, một thứ tội phạm vì dũng mãnh, một thứ tội phạm vì yếu hèn. Do đó có một thứ tội phạm phẩm cách cao nhã, một thứ tội phạm đáng kinh tởm. Ở đây nói về loại thứ hai, trong khi ở đoạn 45, chương “Những cuộc viễn hành của con người phi thời” đề cập tới loại thứ nhất. - Fuchs - TT - “Tại sao quá cứng rắn?”. Than trong bếp một hôm hỏi kim cương. “Rút cục, chúng ta chẳng phải là bà con, họ hàng gần với nhau sao?”. “Tại sao quá yếu mềm?”. Hỡi các anh, ta cũng xin hỏi các anh như thế, các anh há chẳng phải là anh em với ta sao? Hay làm cách nào triết lý với cây búa Friedrich Nietzsche, dịch và giới thiệu Nguyễn Hữu Hiệu, NXB Văn Học TT - “Tại sao quá cứng rắn?”. Than trong bếp một hôm hỏi kim cương. “Rút cục, chúng ta chẳng phải là bà con, họ hàng gần với nhau sao?”. “Tại sao quá yếu mềm?”. Hỡi các anh, ta cũng xin hỏi các anh như thế, các anh há chẳng phải là anh em với ta sao?Sao quá mềm, quá nhu nhược và dễ khuất phục làm vậy? Sao có quá nhiều sự chối bỏ và tự phủ định trong tâm các anh đến thế? Sao có quá ít định mệnh trong ánh mắt các anh nhìn? Và nếu các anh không muốn trở thành những định mệnh, những kẻ bất khuất, làm sao các anh có thể, một ngày kia, cùng ta - chiến thắng! Và nếu sự cứng rắn của các anh không muốn được chớp sáng và cắt đứt, làm sao các anh có thể, một ngày kia, cùng ta - sáng tạo! Bởi những kẻ sáng tạo đều cứng rắn. Và in dấu tay lên vách thiên thu nhẹ tựa như lên sáp ong mềm dường như phải là diễm phúc của các anh. Diễm phúc được viết lên ý chí của thiên thu, tựa như trên đồng thau - cứng rắn hơn đồng thau, cao nhã hơn đồng thau. Chỉ kẻ cứng rắn nhất mới xứng danh là người cao nhã nhất. Tấm bảng khắc mới này, hỡi những người anh em, ta truyền trao lại cho các anh Hãy trở nên cứng rắn! Trên đây là lời kết từ cuốn sách của Nietzsche nhan đề Buổi hoàng hôn của những thần tượng - hay làm cách nào triết lý với cây búa, một trong những di chúc triết học Nietzsche để lại cho hậu thế. Cũng như trong các tác phẩm bất hủ khác, đoạn trích này tự nó đã là một lời giới thiệu tốt nhất về cuốn sách, và có lẽ như thế đã là đủ để vẫy gọi những độc giả can đảm lên đường cùng hành trình và đối thoại với tác giả. Ở một nơi khác, Nietzsche viết “Những con người tâm linh sâu thẳm nhất, khi nhận họ là những kẻ can đảm nhất, đã trải nghiệm những bi kịch đau đớn nhất. Nhưng cũng chính vì lý do đó mà họ tôn vinh cuộc đời, bởi nó chống lại họ bằng sự đối kháng mãnh liệt nhất”. Nietzsche chính là một mẫu người như vậy. Thế nhưng giọng văn khắc nghiệt mà ông cố tình dùng, lối sống khắc nghiệt mà ông tự áp đặt lên chính cuộc đời mình, những lời phán quyết khắc nghiệt mà ông quyết định dành cho những thần tượng của mình và của loài người - tất cả chỉ là những minh chứng cho một tình yêu quá lớn ông dành cho con người, với thân phận và sứ mạng của họ. Văn chương Nietzsche toát ra khí phách, tinh anh của con người ông. Sống và viết, vì vậy, đối với Nietzsche là một. Cuộc đời và sự nghiệp trước tác của ông song hành và thống nhất với nhau. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này với những ai đang vấp phải những trở ngại trên con đường tìm lại chính mình, để “trở thành chủ nhân cho hạnh phúc và bất hạnh của chính mình” như lời Nietzsche nói. Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0 Chuyển sao tặng cho thành viên x1 x5 x10 Hoặc nhập số sao Trang chủ Sách chuyên ngành Triết học Buổi Hoàng Hôn của Những Thần Tượng » Mua Sách Tại Những Trang Thương Mại Điện Tử Uy Tín Mô tả Giới thiệu bạn đọc cuốn ebook "Buổi Hoàng Hôn của Những Thần Tượng" Buổi Hoàng Hôn Của Những Thần Tượng Hay làm Thế Nào Triết Lý Với Cây Búa Danh Tác Triết Học Đây là cuộc tuyên chiến vĩ đại. Đây là cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lý trí, luân lý, tâm lý học lòng ái quốc, vị tha, tình nhân loại...Đây là cuộc lột mặt nạ không tiếc thương những nhân vật , những thần tượng tượng trưng cho những chân lý, những giá trị cũ Socrate Platon, thiện ác, đẹp xấu... và những thần tượng tượng trưng cho những chân lý giá trị mới Renan, Rousseau, Sainte- Beuve, nghệ thuật vị nghệ thuật, dân chủ, tiến bộ... Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác phẩm này những tư tường hữu thể học quan trọng nhất của Nietzche. Đúng hơn, chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là hữu thể học truyền thống coi là hữu thể chân thực Wahren - Sein cái thực ra chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả các đặc tính của phi thể Nicht - Sien và vô thể Nichts và chối bỏ, coi như phi hữu và phi thực cái thực ra là hữu thể đích thực và hữu thể duy nhất... Chương quan trọng nhất và cũng là trọng tâm của tác phẩm là chương Lý trí trong triết học. Trước đó là vấn đề Socrate, sau đó là Luân lý như một cái gì phản tự nhiên. Cây búa nói Tại sao quá cứng rắn! - than trong bếp một hôm hỏi kim cương chúng ta chẳng phải là bà con họ hàng gần với nhau sao?. Tại sao quá mềm? Hỡi các anh, ta cũng xin hỏi các anh như thế Sao quá mềm, quá nhu nhược và dễ khuất phục làm vậy? sao quá nhiều khước từ và chối bỏ trong tâm tư các anh ? Sao quá ít định mệnh trong ánh mắt các anh nhìn ? Và nếu các anh không muốn là những định mệnh, những kẻ khốc liệt làm sao một ngày kia các anh có thể cùng ta- chiến thắng? Và nếu sự cứng rắn của các anh không muốn loé sáng và cắt, cứa làm sao một ngày kia các anh có thể cùng ta - sáng tạo? Tham khảo thêm Các Nguyên Lý Của Triết Học Pháp QuyềnTham khảo thêm Các Triết Thuyết LớnTham khảo thêm Cách Mạng Và Phản Cách Mạng Ở ĐứcTham khảo thêm Cách Ta NghĩTham khảo thêm Can Đảm Biến Thách Thức Thành Sức MạnhCLICK LINK DOWNLOAD EBOOK TẠI ĐÂY. Thẻ từ khóa Buổi Hoàng Hôn của Những Thần Tượng, Buổi Hoàng Hôn của Những Thần Tượng pdf, Buổi Hoàng Hôn của Những Thần Tượng ebook, Tải sách Buổi Hoàng Hôn của Những Thần Tượng

buổi hoàng hôn của những thần tượng